UBND tỉnh Quảng Nam vừa có văn bản kiến nghị các bộ, ngành trung ương về việc vận hành hợp lý các hồ chứa thủy điện trên địa bàn tỉnh trong mùa khô.

Nếu thủy điện không xả nước, khoảng 10.000 ha lúa hạ nguồn Vu Gia – Thu Bồn sẽ bị thiệt hại nặng nề và hàng trăm ngàn hộ dân sẽ thiếu nước sinh hoạt. (Ảnh: Vũ Trung).nangluongvietnam.org
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Quảng Nam kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông có ý kiến với các bộ, ngành liên quan nhằm nhanh chóng ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa thủy điện. Với Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam, tỉnh Quảng Nam kiến nghị chỉ đạo các nhà máy thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn thực hiện điều tiết xả nước phát điện đảm bảo hài hòa với yêu cầu sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân vùng hạ du.
Trong văn bản kiến nghị UBND tỉnh Quảng Nam đã khẳng định: việc nạo vét, khơi thông dòng chảy trên sông Vu Gia – Thu Bồn chỉ là giải pháp tình thế. Nếu thủy điện không xả nước, khoảng 10.000 ha lúa hạ nguồn Vu Gia – Thu Bồn sẽ bị thiệt hại nặng nề và hàng trăm ngàn hộ dân sẽ thiếu nước sinh hoạt.
Nguồn: NangluongVietnam
Trên cơ sở báo cáo của Bộ Công Thương tại công văn số: 4638/BCT-TCNL ngày 31/5/2012 về việc quản lý phát triển các dự án thủy điện và vận hành các nhà máy thủy điện, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã yêu cầu Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương rà soát, điều chỉnh Quy hoạch bậc thang thủy điện các dòng sông, Quy hoạch phát triển thủy điện nhỏ trên địa bàn cả nước và ở từng địa phương.
Theo đó, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo chủ đầu tư các nhà máy thủy điện hiện có thực hiện rà soát, đánh giá lại thiết kế các công trình thủy điện; đề xuất các giải pháp quản lý, vận hành và kỹ thuật xây dựng, bảo đảm an toàn cho công trình và hạ du trong các tháng mùa lũ.
Đồng thời, tổ chức kiểm tra các dự án thủy điện đang thi công, kiên quyết xử lý trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu không thực hiện đúng theo các quy định về công tác giám sát, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng công trình…
Kiểm tra việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ di dân tái định cư tại các dự án thủy điện; chỉ đạo giải quyết những vấn đề còn tồn tại, bảo đảm cho người dân tái định cư có cuộc sống ổn đinh, tốt hơn nơi ở cũ. Trường hợp vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Thủ tướng chỉ đạo bố trí đủ quỹ đất để chủ đầu tư các dự án thủy điện đầu tư trồng rừng mới thay thế diện tích rừng đã chuyển mục đích sử dụng sang xây dựng các dự án thủy điện theo quy định; có biện pháp bắt buộc chủ đầu tư các dự án thủy điện trồng bù diện tích rừng theo thiết kế được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trường hợp các dự án thủy điện có yêu cầu phải trồng lại rừng, nhưng không có đủ quỹ đất, UBND tỉnh cần yêu cầu chủ đầu tư các dự án thủy điện đóng góp bằng tiền vào quỹ bảo vệ và phát triển rừng để điều tiết trồng bù rừng theo quy định.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng hợp toàn bộ diện tích rừng sử dụng trong các công trình thủy điện, diện tích rừng được trồng mới theo quy định do xây dựng các nhà máy thủy điện trên địa bàn, gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Đồng thời, UBND các địa phương thực hiện việc kiểm tra, xem xét kỹ năng lực của các doanh nghiệp trước khi giao làm chủ đầu tư xây dựng các dự án thủy điện nhỏ; kiên quyết thu hồi các dự án thủy điện mà chủ đầu tư không đủ năng lực thực hiện hoặc không thực hiện đúng quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng và bảo vệ môi trường.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng ban hành quy định về dòng chảy tối thiểu ở hạ du các hồ chứa và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện trong quý III năm 2012…
Nguồn: NangluongVietnam
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành trong quý IV/2012 Quy trình vận hành liên hồ chứa thủy lợi, thủy điện trong các tháng mùa lũ trên hệ thống sông Đồng Nai.

Hồ Dầu Tiếng. Ảnh: Vinabooking.vn.nangluongvietnam.org
Theo Quyết định 1879/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, 61 hồ thủy lợi, thủy điện trên lưu vực 11 sông phải xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa.
Trong đó, riêng lưu vực sông Đồng Nai có 13 hồ phải xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa gồm các hồ: Dầu Tiếng, Trị An, Thác Mơ, Đơn Dương, Đa Mi, Hàm Thuận, Cần Đơn, Đại Ninh, Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Srok Phu Miêng và Phước Hòa.
Nguồn: Chinhphu
Chiều 3/7, tại Phnom Penh, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang và Bộ trưởng Bộ trưởng Tài nguyên nước và Khí tượng Campuchia Lim Kean Hor đã ký Bản ghi nhớ về việc cùng thực hiện Nghiên cứu tác động thủy điện dòng chính sông Mekong tới Châu thổ Mekong của Việt Nam và Campuchia.
Hai bên thỏa thuận mục tiêu cùng tiến hành một nghiên cứu về tác động của phát triển thủy điện dòng chính sông Mekong và các loại hình phát triển khác ở thượng nguồn tới vùng Châu thổ Mekong của Campuchia và Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, bao gồm cả các ảnh hưởng tới vùng châu thổ và chế độ dòng chảy Biển Hồ của Campuchia.
Mục đích của nghiên cứu là một đánh giá tổng hợp về môi trường, kinh tế và xã hội các tác động của các đập thủy điện dòng chính sông Mekong tới các hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội vùng Châu thổ Mekong. Đề cương của Nghiên cứu sẽ được thảo luận và nhất trí sau.
Hai bên đồng ý mời Lào cùng tham gia thực hiện nghiên cứu.
Việc tổ chức thực hiện được hai bên nhất trí Nghiên cứu là một quá trình đánh giá với sự tham gia rộng rãi nhất từ các bên tham gia ở các cấp tỉnh, quốc gia và khu vực trong các cộng đồng cơ quan chính phủ, tổ chức xã hội và giới nghiên cứu khoa học thông qua các hội thảo, nhóm công tác và một chiến lược tuyên truyền rộng rãi cho các kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu sẽ dựa vào các nhóm công tác ở các cấp, bao gồm ban chỉ đạo dự án, nhóm tư vấn kỹ thuật, nhóm tư vấn quốc tế và các tư vấn phụ. Thêm vào đó, nhóm tư vấn quốc tế sẽ xác định và xác lập các kênh hợp tác với các quốc gia trong khu vực sông Mekong nhằm thúc đẩy chia sẽ số liệu và kết quả giữa các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mekong quốc tế.
Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang cho rằng, hai nước Việt Nam, Campuchia nhất trí về việc nghiên cứu chung thể hiện nhận thức tầm quan trọng của việc tăng cường và đẩy mạnh hợp tác và phối hợp phát triển và quản lý tài nguyên nước trong các lĩnh vực cần chia sẽ lợi ích giữa Việt Nam và Campuchia; cũng như ý thức được tầm quan trọng yêu cần cần hiểu rõ các tác động của phát triển thủy điện dòng chính chính sông Mekong và các loại hình phát triển khác ở thượng nguồn tới vùng Châu thổ Mekong của Campuchia và Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Bộ trưởng cho biết, việc tiến hành nghiên cứu chung nhằm thực hiện thỏa thuận mới đây giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Campuchia Hun Sen về sự cần thiết tiến hành một nghiêu cứu với các đánh giá về khoa học, kỹ thuật một cách tổng thể, sâu sắc và các phân tích hỗ trợ để giúp cho các hoạt động quy hoạch và phát triển trong Lưu vực sông Mekong được thực hiện với các khuyến nghị và thông tin về hậu quả xác đáng nhất.
Hai nước ký kết Bản ghi nhớ về nghiên cứu là cơ sở quan trọng để tiếp tục triển khai các công việc hướng tới mục tiêu tăng cường hơn nữa tình đoàn kết, gắn bó cùng nhau khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên nước sông Mekong.
Nguồn: Vietnam+
Theo các nhà khoa học, thủy điện chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất điện Việt Nam và đóng vai trò quan trọng cho an ninh năng lượng quốc gia. Ngoài mục tiêu phát điện, các nhà máy thủy điện còn có nhiệm vụ cắt và chống lũ cho hạ du trong mùa mưa bão, đồng thời cung cấp nước cho hạ du phục vụ nhu cầu dân sinh trong mùa kiệt.

nangluongvietnam.org
Vai trò quan trọng cho an ninh năng lượng quốc gia
Với 2.360 dòng sông là điều kiện để nước ta phát triển thủy điện. Hiện nay, cả nước có 75 công trình thủy điện lớn và khoảng trên 470 công trình thủy điện nhỏ, với công suất từ 1.000 đến 3.000 MW. Trong đó, sông Đồng Nai dẫn đầu về số công trình thủy điện lớn 17/75 công trình (22,6% tổng số công trình trên toàn quốc).
Thủy điện đóng vai trò quan trọng cho an ninh năng lượng quốc gia. Theo sơ đồ điện VII và 9 nhóm giải pháp về phát triển thủy điện được Chính phủ phê duyệt đến năm 2020, nâng tổng công suất thủy điện đạt 17.400 MW, chiếm 23,1% trên tổng số 75.000MW tổng nguồn điện năng Quốc gia.
Theo đó, nguồn lực thủy điện được khai thác tập trung ở các hệ thống sông Đà 6.800MW, Đồng Nai 3.000 MW, Sê San 2.000MW, Lô Gâm 1.600MW, Vu Gia – Thu Bồn 1.500 MW, Mã – Chu 760MW, sông Cả 480MW, sông Hương 280MW, sông Ba Hạ 550MW, và tiềm năng thủy điện nhỏ có tổng công suất khoảng 3.000MW.
Tuy nhiên, việc phát triển thủy điện tràn lan thời gian qua đã bộc lộ những bất ổn, hậu quả xấu. Theo các chuyên gia, những bất cập đang dần lộ rõ trong công tác quản lý xây dựng và vận hành các công trình thủy điện.
Thực tế, sau khoảng thời gian phát triển thủy điện ở nước ta làm nảy sinh những vấn đề như: Mất rừng, suy thoái đa dạng sinh học, mất đất sản xuất làm ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, thay đổi chế độ dòng chảy của các dòng sông… và một số nhà máy thủy điện không thực hiện được vai trò cắt lũ vào mùa mưa, điều tiết nước vào mùa khô đã khiến các nhà khoa học phải nhìn nhận lại vấn đề phát triển thủy điện.
Theo các chuyên gia, hơn 90% công trình thủy điện trên cả nước chưa thể đảm nhận nhiệm vụ điều tiết lũ vào mùa mưa và điều tiết nước cho vùng hạ du vào mùa khô hạn. Ngoài ra, chất lượng của các công trình thủy điện cũng cần phải được xem xét lại.
Kết quả khảo sát thông tin và phỏng vấn của nhóm nghiên cứu của Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đối với các Ban Quản lý rừng đặc dụng cho thấy, có tới 47 khu rừng đặc dụng đã hoặc có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi thủy điện, với khoảng 119 dự án thủy điện lớn, nhỏ được quy hoạch trong hoặc xung quanh các rừng đặc dụng này. Tại các khu rừng đặc dụng có dự án thủy điện, mật độ phân bố dự án thủy điện khá cao. Tính trung bình, mỗi vườn quốc gia, khu bảo tồn phải “cõng” khoảng 2,5 dự án thủy điện, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên (gần 51%).
Đồng chí Lê Phước Thanh – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho rằng: Trong quá trình xây dựng và vận hành các nhà máy thủy điện, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh không được giải quyết thấu đáo trên cơ sở các căn cứ khoa học vững chắc sẽ để lại nhiều hậu quả xấu về môi trường sinh thái, ảnh hưởng tính nguyên vẹn của các dòng sông.
Tình trạng ngập lụt vùng hạ du do thủy điện xả lũ; vấn đề an toàn đập; công tác tái định cư, hậu tái định cư, nhân dân thiếu đất sản xuất, tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo cao, hạ tầng tái định cư chưa tính đến yếu tố phù hợp với đời sống, phong tục và bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhiều hộ dân đã bỏ khu tái định cư, phá rừng làm nhà, làm rẫy. Thủy điện chưa làm tốt chức năng điều tiết lũ, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô và gần đây nhất là sự cố rò rỉ nước tại thân đập Thủy điện Sông Tranh 2 làm cho chính quyền và nhân dân hết sức lo lắng.
TS Đào Trọng Hưng, thành viên Ban Thường vụ Mạng lưới sông ngòi Việt Nam thừa nhận: Phát triển thủy điện đã làm mất rừng, ảnh hưởng đến bảo tồn đa dạng sinh học, mất đất sản xuất, xói mòn, bồi lắng lòng hồ. Trong đó, mạng lưới sông ngòi bị thay đổi thủy văn, mất nước vùng hạ lưu, chia nước lưu vực, biến dạng địa mạo ven bờ vùng cửa sông, gây địa chấn – động đất, tác động xấu đến hệ sinh thái thủy vực và ô nhiễm nguồn nước.
Theo TS Hưng, phát triển thủy điện còn gây ảnh hưởng đến bảo tồn đa dạng sinh học. Nhiều khu bảo tồn thiên nhiên như Cát Tiên còn có tới 6 dự án, Hoàng Liên có 6 dự án, khu bảo tồn Sông Tranh có 7 dự án… đã ảnh hưởng liên hoàn đến sinh cảnh các loài quý hiếm cả trên cạn và dưới nước và các hành lang bảo tồn.; hay việc xả nước của các công trình thủy điện đã gây lũ lụt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân, như: hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) khi lũ lớn có thể phải xả 2.800m3/s, nhưng mới xả khoảng 600m3/s thì đã gây lụt lớn ở hạ du.
Năm 2010, hồ Kẻ Gỗ xả khoảng 500m3/s đã gây ngập lớn cho Quốc lộ 1, trong khi nếu có lũ rất lớn thì hồ phải xả 1.500m3/s. Do thiếu những quy định đầy đủ và cụ thể cho vận hành hồ chứa như vậy, nên khó phân định trách nhiệm khi xảy ra những thiệt hại ở hạ du do xả lũ. Hay như Thủy điện Sông Tranh 2 làm mất đất lúa nước, đất rừng trồng, đất nương rẫy, cây công nghiệp, vườn nhà, đất màu ven sông suối, đất ao cá, và đất bãi chăn gia súc, gia cầm….
Rõ ràng, phát triển thủy điện là cần thiết. Đó là nguồn năng lượng sạch và tái tạo. Trong bối cảnh các nguồn năng lượng hóa thạch (than, dầu mỏ…) đang cạn dần, các nhà máy điện hạt nhân tiềm ẩn nguy cơ thiếu an toàn, người ta đặc biệt chú trọng đến các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có thủy điện. Tuy nhiên, phát triển thủy điện thế nào cho hiệu quả, phát triển đảm bảo tính bền vững là vấn đề đang rất cần phải bàn đến.
Cần phát triển thủy điện bền vững
Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) về Quy hoạch điện VI năm 2009 nhận định rằng, rủi ro tới đa dạng sinh học là rất trầm trọng vì các đập thủy điện đều nằm gần các vùng đa dạng sinh học cao và nhạy cảm. Nhiều khu rừng đặc dụng được xác định có mức độ rủi ro cao về đa dạng sinh học, đặc biệt là các loài nguy cấp và có tầm quan trọng toàn cầu như: Hổ, voi (Quảng Nam), tê giác, bò tót (Cát Tiên), sao la (Huế, Hà Tĩnh)… Trong khi đó, theo đánh giá môi trường chiến lược cho Quy hoạch điện VII, chỉ tính riêng diện tích rừng bị mất do xây dựng đường truyền tải điện đã lên tới 14.000 ha, các hệ sinh thái ở 39 khu vực có đa dạng sinh học cao và 59 khu vực bảo tồn có nguy cơ bị phá vỡ và bị chia cắt hệ sinh thái.
Do vậy, để đảm bảo mục tiêu phát triển thủy điện hài hòa với bảo tồn đa dạng sinh học bền vững, cần cải thiện quy trình ra quyết định, bằng cách tăng cường sự phối kết hợp giữa các bên liên quan, cũng như nâng cao chất lượng trong sự tham gia của các bên liên quan. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức về vai trò của đa dạng sinh học, năng lực quản lý bảo tồn, nâng cao chất lượng thực hiện các đánh giá tác động môi trường, đánh giá môi trường chiến lược song hành với việc lập quy hoạch.
Có thể nói, với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng như hiện nay thì sản xuất năng lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội còn cần đến nhiều nước hơn nữa và thủy điện có lẽ vẫn được duy trì ở vị trí đứng đầu để sản xuất năng lượng.
Thế nên, kiểm soát chặt chẽ tác động của việc xây dựng các công trình thủy điện thông qua các chỉ số kỹ thuật, cũng như các báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi xây dựng các công trình này là tối cần thiết và không được buông lỏng.
Để phát triển thủy điện một cách bền vững, theo các chuyên gia, cần phải minh bạch thông tin; phát triển thủy điện cần phải có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ quá trình quy hoạch, thiết kế, xây dựng đến vận hành công trình.
Các bộ, ngành phê duyệt tiêu chuẩn kỹ thuật và công nghệ thi công thủy điện phải theo quy định của Nhà nước, lập quy trình và tiến hành kiểm tra an toàn hồ đập; đánh giá mức độ rủi ro khi tích nước và có biện pháp ứng phó. Chủ đầu tư các công trình đập thủy điện phải đảm bảo có qui trình tích nước, xã lũ an toàn, đồng thời xây dựng kịch bản ứng phó thiên tai khi xảy ra sự cố.
Theo đó, kế hoạch phát triển thủy điện cần được các cấp ra quyết định xem xét lại một cách thận trọng, hạn chế sự phát triển thuỷ điện tràn lan – giảm thiểu những tác động tiêu cực cho môi trường, sinh thái của dòng sông, văn hóa các cộng đồng ven sông, sinh kế của người dân thế hệ hôm nay và mai sau. Việc phát triển thủy điện cần phải bền vững vì lợi ích của tất cả, có sự tham gia thực sự của các bên liên quan, cộng đồng ảnh hưởng trong quá trình từ quy hoạch đến vận hàng.
Đối với các công trình đang và sẽ ra đời – cơ chế chia sẻ lợi ích một cách công bằng giữa nhà đầu tư – cộng đồng trong suốt quá trình vận hành công trình, không để sự cố, thảm họa xảy ra. Khi thiết kế và thi công công trình thủy điện cần phải xét đến yếu tố biến đổi khí hậu khi xác định cấp công trình, tính toán kỹ thuật công trình; duy trì và phục hồi rừng đầu nguồn.
Phải có kịch bản liên quan đến các sự cố đập và các phương án phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại cho cộng đồng liên quan trong phạm vi ảnh hưởng của đập. Thông tin về phát triển thuỷ điện, về an toàn đập và các vấn đề liên quan cần minh bạch, công khai đối với tất cả các bên liên quan (cộng đồng, các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng…). Việc phát triển thủy điện cần phải đặc biệt chú ý đến chính sách tái định cư cho người dân bị di dời, nơi ở mới phải thỏa mãn các nhu cầu về cả văn hóa tinh thần và vật chất…
Xét theo đúng quy trình lập quy hoạch thì quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch sử dụng đất phải được thống nhất trước, sau đó quy hoạch các ngành cụ thể, trong đó có quy hoạch thủy điện mới được phát triển, lấy đó làm cơ sở. Bên cạnh đó, với thủy điện là một ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng, quy hoạch phải mang tính ổn định lâu dài và có tính ràng buộc cao.
Nguồn: CPV
Tỉnh Nghệ An đang chú trọng phát triển thủy điện, khai thác tốt tiềm năng hiện có gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

nangluongvietnam.org
Điển hình như một số dự án thủy điện như Suối Choang và thủy điện Tiền Phong, dù “thỏa mãn” điều kiện kinh tế kỹ thuật nhưng không được xem xét bổ sung phê duyệt vì không đạt tiêu chí môi trường, ảnh hưởng đến vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
Tỉnh Nghệ An đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường thủy điện, trong đó dự báo các tác động đến môi trường của việc xây dựng hệ thống các công trình thủy điện ở tỉnh, từ đó đề xuất các giải pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực.
Những dự án thuỷ điện đầu tư vào Nghệ An phải thực hiện đúng các tiêu chí về môi trường. Đây được xem là “cơ sở cứng” để đánh giá tiêu chí môi trường dự án và là điều kiện đủ để đầu tư dự án. Yêu cầu đặt ra là các dự án thủy điện cần đảm bảo được sự phát triển kinh tế xã hội bền vững và ổn định; bảo vệ được các hệ sinh thái tự nhiên; cung cấp nước cho các hoạt động kinh tế xã hội ở vùng hạ du; đảm bảo cho đồng bào ở vùng xây dựng các nhà máy thủy điện có đời sống vật chất, tinh thần ổn định.
Ngoài ra, các dự án thủy điện phải bảo vệ được rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn đồng thời bảo vệ được tính đa dạng sinh học. Nơi các nhà máy thủy điện được xây dựng, về cơ bản phải không làm thay đổi các đặc trưng hình thái và dòng chảy của các dòng sông, suối, nhằm hạn chế sự biến động của các hệ sinh thái ở vùng hạ du.
Về công tác quy hoạch, ngoài tiêu chí môi trường đã thực hiện, các dự án cần dựa vào những nguyên tắc sử dụng tổng hợp tài nguyên nước, sử dụng nước trong phát điện.
Trong quản lý, vận hành công trình thủy điện, các dự án cũng chú ý nhiều hơn đến chống lũ, cấp nước, bảo vệ môi trường ở hạ du, đồng thời xem xét vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên nước nhằm sử dụng hiệu quả, đa mục tiêu nguồn nước.
Tỉnh Nghệ An, cần đánh giá môi trường tổng thể, cộng hưởng của nhiều dự án trên cùng một hệ thống sông trên địa bàn toàn tỉnh nhằm giám sát việc khai thác các dự án thủy điện theo hướng bền vững.
Các địa phương nơi có dự án thuỷ điện phối hợp với chủ đầu tư thực hiện tốt và kịp thời công tác di dân tái định cư cho người dân bị mất đất do xây dựng công trình thủy điện. Giải quyết tốt các chính sách hỗ trợ về đời sống cho các hộ dân, hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho số dân phải di chuyển đến nơi ở mới.
Để bảo vệ rừng bị ảnh hưởng cần quy hoạch ổn định thủy điện gắn với xây dựng phát triển rừng. Đối với các dự án ảnh hưởng đến diện tích rừng, các dự án phải thực hiện cam kết trồng bù rừng và phối hợp với kiểm lâm để ngăn chặn các hoạt động chặt phá rừng có thể xảy ra.
Nghệ An là tỉnh có hệ thống sông ngòi nhiều, lưu vực lớn, độ dốc địa hình cao, lượng mưa trung bình hàng năm khá lớn, đây là tiềm năng để phát triển thủy điện. Theo số liệu quy hoạch, trên địa bàn tỉnh có 41 công trình thủy điện vừa và nhỏ có thể khai thác và kêu gọi đầu tư xây dựng đến năm 2015.
Tỉnh Nghệ An hiện có 27 dự án thủy điện vừa và nhỏ được cấp phép nghiên cứu triển khai lập báo cáo đầu tư, xây dựng công trình; trong đó 14 công trình đang triển khai thi công, 5 dự án đã cấp chứng nhận đầu tư chưa khởi công và 8 dự án đang được nghiên cứu lập dự án đầu tư.
Nguồn: TTXVN
Nghị định thư Kyoto là thoả thuận quốc tế liên quan tới Hiệp định khung của Liên Hợp Quốc (“UNFCCC”: United Nations Framwork Climate Change) về vấn đề biến đổi khí hậu. CDM là một công cụ của cơ chế phát triển sạch giúp giảm phát thải khí nhà kính GHG (Greenhouse Gases) trên toàn cầu.

nangluongvietnam.org
Dự án nhà máy thủy điện Đa Dâng 2 (huyện Đức Trọng và huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng), có công suất 34 MW, sản lượng điện được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo (thủy năng), cung cấp cho lưới điện quốc gia 152 triệu kWh/năm, tổng lượng giảm phát thải CO2 khoảng là 86.069 tấn CO2/năm.
Với việc đăng ký thành công hai dự án CDM Đasiat và Đa Dâng 2, ngoài doanh thu từ bán điện cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Công ty cổ phần Thủy điện Miền Nam còn có nguồn thu từ việc bán chứng chỉ giảm phát thải hàng năm từ 2 dự án này khoảng 118.526 chứng chỉ.
Nguồn: SHP
- 1
- 2