Ủy ban Việt Nam

  • Đại hội Năng lượng Thế giới lần thứ 24
  • Cuộc thi Startup Năng lượng Toàn cầu
  • Nghiên cứu năng lượng
  • Trang tin ngành năng lượng
  • Lịch sự kiện
  • Trang chủ
  • Hội đồng thế giới
  • Ủy ban Việt Nam
  • Mạng lưới
  • Hoạt động
  • Báo chí
  • Tin mới

Nghiên cứu nhiên liệu ở Việt Nam ( Kỳ 1 )

  • 0
hangphuong
Thứ Năm, 01 Tháng Mười Một 2018 / Published in Tin tức

PHẦN I – NGHIÊN CỨU VỀ NHIÊN LIỆU Ở VIỆT NAM

A- Phần mở đầu:

I- Tình hình năng lượng ở Việt Nam
Để tạo ra 1.000 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn khoảng 600 kg dầu quy đổi, cao gấp 1,5 lần so với Thái Lan và gấp 2 lần mức bình quân của thế giới. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu. Theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, được thiên nhiên ưu đãi và có gần như tất cả các nguồn tài nguyên năng lượng, nhưng khả năng khai thác, chế biến và sử dụng ở nước ta còn hạn chế.
Giai đoạn 2010-2020 có thể xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng nội địa, và Việt Nam chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.
Tình trạng lãng phí năng lượng ở nước ta rất lớn. Hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy điện đốt than, dầu chỉ đạt 28-32%, thấp hơn so với các nước phát triển 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới chừng 20%.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần (tức là để làm ra một giá trị sản phẩm như nhau, nước ta phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần). Tỷ lệ giữa tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam lên đến 2 lần, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là dưới 1.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp sản xuất xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh… của nước ta có thể đạt trên 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể lên tới trên 30%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ. Chi phí bỏ ra để tiết kiệm 1 kWh điện năng ít hơn nhiều so với chi phí đầu tư để sản xuất ra 1 kWh trong các nhà máy điện.
Ngoài ra, do hơn 80% nguồn năng lượng nước ta sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhiên liệu có nguồn gốc hữu cơ nên quá trình cháy nhiên liệu nói riêng và hoạt động năng lượng nói chung đều là những nhân tố lớn tham gia gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng năng lượng tạo ra khoảng 25% lượng phát thải CO2 và khoảng 15% tổng lượng khí nhà kính.Vì vậy, nếu tiết kiệm sử dụng năng lượng cũng có nghĩa là giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Ngành điện mỗi năm phải tăng trưởng đến 14-15% mới đáp ứng được yêu cầu tăng 6-8% GDP, trong khi bình quân thế giới, để tăng 1% GDP cũng chỉ tăng 1,2 – 1,5% năng lượng tiêu thụ.
Về nguyên nhân gây lãng phí và sử dụng không hiệu quả năng lượng, là do công nghệ lạc hậu; điện bị cắt giảm thường xuyên; hệ thống thiết bị, đường dây truyền tải ở một số khu vực đã quá cũ, chưa được thay thế; mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chưa đặt ra đúng tầm quan trọng; công tác quản lý sử dụng năng lượng còn nhiều bất hợp lý…
Việc tách rời khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng là không hiệu quả. Sản xuất phải gắn liền với sử dụng bởi nếu sản xuất thừa thì tiết kiệm mấy cũng không hiệu quả. Do đó việc khai thác và sử dụng phải là quy trình khép kín.
Đứng ở góc độ người dân, ai cũng mong muốn sử dụng năng lượng hiệu quả trong khi tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của chúng ta hiện nay rất lãng phí. Ngành điện thiếu điện nên cắt, người dân dùng ít điện cũng tiết kiệm nhưng tính hiệu quả thì chưa chắc đã có. Hao phí trên đường truyền tải đổ hết vào giá điện cho người dân. Như vậy gây nên sự lãng phí . Nếu chỉ khoanh lại trong phạm vi sử dụng thì không thỏa đáng.
Theo dự án Luật, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo…Các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng sẽ được quản lý chặt chẽ để từng bước nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng thông qua hoạt động dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Tiến tới loại bỏ dần các trang thiết bị, công nghệ tiêu tốn năng lượng. Chuyển giao công nghệ sử dụng nhiên liệu tái sinh, nhiên liệu sinh học trong giao thông vận tải…

Nguồn:Lê Xuân Thịnh

bảo vệ môi trườngdán nhãnmôi trườngnăng lượngnăng lượng tái tạophát triển bền vữngthantiết kiệmtiết kiệm năng lượngxuất khẩu

Đại hội đại biểu toàn quốc của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam 2016

  • 0
hangphuong
Thứ Bảy, 02 Tháng Bảy 2016 / Published in Tin tức, Truyền thông, sự kiện

VIETNAMENERGY
Ngày 24/6, tại Hà Nội, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) đã tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021 và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
Nhiệt liệt Chào Mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
Đại diện các cơ quan Trung ương: Văn phòng Trung ương Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chính phủ; Ban Kinh tế Trung ương; Bộ Công Thương; Bộ Nội vụ,…
Nhiệt liệt chào mừng trên 300 đại biểu chính thức của Đại hội, là các đồng chí lãnh đạo các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo các Tổng công ty, các công ty và các đơn vị thành viên thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam về dự đại hội…
Với vai trò phản biện, kiến nghị với Đảng, Chính phủ về phát triển năng lượng quốc gia, Hiệp hội đã góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
Đại hội nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện các cơ quan thông tin đại chúng của Trung ương và Hà Nội đến tham dự, theo dõi và đưa tin.
Thành tích quan trọng trong suốt thời kỳ đổi mới của đất nước, ngành năng lượng Việt Nam đã đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Mức tăng trưởng năng lượng hàng năm đều gấp đôi mức tăng trưởng GDP của cả nước, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản các dự án năng lượng ngày càng phát triển và luôn đi trước một bước.
VEA đã tổ chức tư vấn, đề xuất các cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện một cách độc lâp, khách quan tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành chức năng – nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các thành viên khắc phục khó khăn để không ngừng phát triển.
Tại Đại hội nhiệm kỳ III, hơn 300 đại biểu chính thức đại diện cho người lao động của ngành Năng lượng Việt Nam đã đánh giá lại toàn bộ các hoạt động của nhiệm kỳ II, để rút ra những bài học, thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ III.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội đồng Khoa học của VEA đã đưa ra đã đưa ra 8 định hướng cho giai đoạn tới, nhằm phản biện tốt hơn các chính sách, giải pháp phát triển năng lượng cho Chính phủ, VEA và các đơn vị thành viên;
+ Trong nhiệm kỳ này, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Năng lượng Việt Nam (VESC) thực hiện, với mục tiêu hỗ trợ phát triển năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. VESC hiện có 5 sản phẩm, dịch vụ chính là: Kiểm toán năng lượng, Tư vấn thiết kế, Tuyển dụng và Đào tạo, Xúc tiến tài chính và Nghiên cứu phát triển. Thúc đẩy mở rộng và phát triển thị trường, sản xuất, kinh doanh và hợp tác khoa học – kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội Thủy điện vừa và nhỏ – Năng lượng xanh (MSH-GE), thúc đẩy sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả; về phân ngành Điện tiếp tục phát triển các nguồn điện mới nhằm tăng sản lượng, tăng công suất bổ sung vào Hệ thống điện quốc gia.
Thành tựu nổi bật trọng nhiệm kỳ qua
1- Quan tâm đặc biệt đến chức năng tư vấn chiến lược phát triển ngành Năng lượng;
2- Thực hiện tốt chức năng tư vấn xây dựng phát triển ngành Năng lượng;
3- Giữ được niềm tin trong hoạt động tư vấn dự án năng lượng;
4- Đề cao trách nhiệm là đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho ba thành viên EVN, PVN, TKV;
5- Tổ chức Hội chợ – Triển lãm và Hội thảo về năng lượng đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư phát triển ngành Năng lượng;
6- Duy trì và đẩy mạnh công tác tuyên truyền lên tầm cao mới phục vụ phát triển ngành Năng lượng Việt Nam;
7- Thành lập các đơn vị trực thuộc mới và phát triển thêm thành viên;
8- Tăng cường mối quan hệ mật thiết với các Bộ, Ngành, các Địa phương, các Tổ chức, Hiệp hội chuyên ngành và các Cơ quan Thông tin đại chúng;
9- Kịp thời chia sẻ với phân ngành Than trước tác động của thiên tai;
10- Thể hiện mạnh mẽ việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
VEA bám sát hoạt động của các thành viên trên tất cả các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý, sản xuất, vận chuyển và truyền tải, phân phối, kinh doanh, thăm dò, khai thác, chế biến, tồn trữ, xuất nhập khẩu năng lượng… để kịp thời kiến nghị tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các bộ, ngành chức năng, nhằm tháo gỡ những khó khăn tác động xấu đến sự phát triển của các thành viên.
Theo đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Chính phủ về việc xác định tiềm năng các nguồn năng lượng than, dầu khí, thủy điện, mặt trời, gió, sinh khối – khí sinh học, địa nhiệt… từ đó xác định đầu tư bằng công nghệ tiên tiến nhất, nguồn vốn khả thi, tổ chức thực hiện. Đặc biệt quan tâm đến xác định trữ lượng nguồn tài nguyên than ở khu vực Đông Bắc, Quảng Ninh, Đồng bằng sông Hồng, trên cơ sở đó đề xuất chiến lược phát triển phân ngành Than trong tương lai.
Những thách thức này, đòi hỏi các thành viên trong ngành Năng lượng Việt Nam phải nỗ lực hết mình, lao động sáng tạo, tích cực đổi mới và vận dụng quy luật của nền kinh tế trị trường, tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, phát huy vai trò của Hiệp hội VEA trong sự nghiệp phát triển mới.

Hiệp hộihỗ trợ phát triển năng lượnghợp tácmôi trườngnăng lượngnăng lượng tái tạonăng lượng xanhthanthủy điệntrung tâmtrung tâm hỗ trợ phát triển năng lượng việt namvesc

Di dời Nhà máy than Nam Cầu Trắng ra khỏi thành phố Hạ Long

  • 0
hangphuong
Thứ Bảy, 21 Tháng Bảy 2012 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức
Hải Phòng: Đưa

Ủy ban Nhân dân thành phố Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vừa công bố sẽ di dời Nhà máy sàng tuyển than Nam Cầu Trắng của Công ty tuyển than Hòn Gai từ trung tâm thành phố Hạ Long ra khu vực khai thác của mỏ Suối Lai, thuộc phường Hà Khánh (cách trung tâm thành phố 7km).

nangluongvietnam.org

nangluongvietnam.org

Theo đó, địa điểm xây dựng của nhà máy mới nằm ở khu vực tập trung các mỏ khai thác than và các hộ tiêu thụ (như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, cảng Làng Khánh…) thuận lợi trong việc vận tải than về nhà máy, vận tải than sạch đi tiêu thụ, cũng như đổ thải.
Vịnh Hạ Long là di sản – kỳ quan thiên nhiên của thế giới, tuy nhiên đang bị một số nhà máy công nghiệp như ximăng, nhiệt điện, khai thác than, chế biến dầu thực vật… bao quanh, dẫn đến nguy cơ bị ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển du lịch của tỉnh Quảng Ninh.
Vì vậy, việc di dời nhà máy công nghiệp ra khỏi trung tâm đô thị du lịch nhằm đảm bảo môi trường, phát triển không gian đô thị, tạo cảnh quan tốt, cải thiện môi trường du lịch Hạ Long nói riêng và du lịch tỉnh Quảng Ninh là yêu cầu cấp bách.
Dự án Nhà máy sàng tuyển than Hòn Gai có công suất 4 triệu tấn/năm. Nhu cầu sử dụng đất của nhà máy là 38,9ha, trong đó diện tích vành đai cây xanh bảo vệ môi trường là 7,4ha.
Vinacomin đã cam kết với tỉnh Quảng Ninh sẽ đầu tư công nghệ sàng tuyển than hiện đại, tuyển than trong môi trường nước, hệ thống xử lý bùn nước theo công nghệ khép kín, sử dụng tối đa nước tuần hoàn.
Việc vận chuyển than vào và ra khỏi nhà máy bằng băng tải có mái che, tại các khu vực có tuyến băng qua khu dân cư, sử dụng băng tải có bao che kín.
Hệ thống kho chứa than của nhà máy tuyển được tối ưu hóa theo địa hình trong khu vực, được bao che xung quanh phù hợp nhằm ngăn chặn tối đa việc phát tán bụi ra xung quanh.
Các phương tiện vận tải than bằng đường thủy qua sông Cửa Lục sẽ được che đậy kín, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường trong khu vực.

Nguồn: NangluongVietnam

than

Sử dụng tài nguyên than và công nghệ giảm thiểu tác động môi trường

  • 0
hangphuong
Thứ Bảy, 14 Tháng Bảy 2012 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Cắt giảm mức độ ô nhiễm và phát thải khí nhà kính, hạn chế phát thải khí cacbon trong quá trình đốt than luôn là những thách thức đối với việc khai thác và sử dụng than và những nhiên liệu hóa thạch khác. Trong các công nghệ hiện đại được áp dụng trong sản xuất năng lượng nhằm giảm bớt mức độ ảnh hưởng môi trường, phải kể đến các công nghệ được ứng dụng tại các nhà máy điện chạy than ngày nay.
Cho đến nay, đã có những bước tiến đáng kể trong việc thực hiện các dự án nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường của hoạt động sử dụng than. Đứng từ góc độ biến đổi khí hậu, việc giảm đáng kể khí gây hiệu ứng nhà kính có thể được thực hiện thông qua việc tăng cường hiệu quả của các nhà máy nhiệt điện sử dụng than và triển khai công nghệ thu giữ khí cacbon (CCS) trong thời gian dài.
Việc thoát thải các chất có thể gây ô nhiễm như lưu huỳnh oxit (SOx) và nitơ oxit (NOx) và bụi sản sinh ra trong quá trình đốt than có thể được kiểm soát và giảm thiểu đáng kể bằng việc sử dụng các công nghệ mới như điện lọc, vải lọc và lọc khí ẩm.
Những công nghệ nói trên đã được sử dụng một cách hiệu quả tại nhiều quốc gia để giải quyết những vấn đề phát thải gây ô nhiễm. Tại Hoa Kỳ, việc sử dụng than đã tăng 77% kể từ năm 1980 trong khi lượng khí thải SO2 đã giảm đi 40%. Lượng lưu huỳnh thải ra từ than cũng được giảm thiểu trong quá trình áp dụng các công nghệ đó hay thông qua các công nghệ phân tách thuỷ ngân như bơm than hoạt tính. Trên thực tế, việc phát thải lưu huỳnh trong quá trình đốt than có thể được giảm đi 90% bằng các công nghệ đã có.

Sự gia tăng hàm lượng cacbon của năng lượng than

Sự gia tăng hiệu quả của nhà máy điện và thay thế những nhà máy cũ kém hiệu quả bằng các công nghệ tối tân mang đến khả năng giảm thiểu đáng kể lượng khí thải nhà kính. Việc nâng cấp hiệu quả của những nhà máy đốt than cũ và kém hiệu quả có thể giúp giảm thiểu 25% lượng CO2 phát ra từ việc sử dụng than, tương đương với 6% lượng khí thải CO2 toàn thế giới – điều này còn lớn hơn cả tác động của tất cả các phương pháp dự kiến được thực hiện theo Nghị định thư Kyoto.
Việc triển khai các công nghệ sử dụng than hiệu quả cao, phát thải cacbon thấp như công nghệ đốt than nghiền siêu tới hạn – SC (supercritical pulverised coal combustion), công nghệ chu trình hỗn hợp khí hóa than phát điện IGCC (integrated gasification combined cycle) đã tăng từ 25% vào đầu những năm 2000 đến khoảng 50% vào năm 2011. Trong khoảng thời gian đó, việc triển khai các công nghệ than tiên tiến được tiến hành một cách nhanh chóng tại Trung Quốc và Ấn Độ. Quá trình này diễn ra bất kể thực tế RD&D chi cho những công nghệ than tiên tiến vẫn giữ nguyên trong thập kỉ cuối.
Trong thời gian lâu dài, CCS cho phép giảm thiểu 90% lượng khí CO2 thải ra từ các nhà máy nhiệt điện dùng than, biến than trở thành một nguồn năng lượng ít độc hại. CCS là một trong những công nghệ quan trọng nhất để khắc phục sự biến đổi khí hậu và quá trình triển khai của nó cũng làm giảm đáng kể tổng chi phí cho việc giảm thiểu khí cacbon. IEA ước tính chi phí cho việc khắc phục biến đổi khí hậu có thể sẽ tăng lên trên 70% nếu CCS không được đưa vào triển khai.

Những phương thức thay thế khác trong việc sử dụng than

Sự tác động đến môi trường của than cũng có thể được giảm thiểu thông qua các phương thức thay thế khác trong việc sử dụng, như khí hoá than ngầm dưới lòng đất (underground coal gasification – UCG) hoặc hoá lỏng than (coal to liquid -CTL).
UCG là phương pháp chuyển hoá than trong lòng đất sang dạng hơi đốt dễ bắt lửa có thể sử dụng trong công nghiệp nhiệt, phát sinh năng lượng hay sự chế tạo hydrogen, khí ga tự nhiên tổng hợp hoặc dầu diesel. UCG mang đến cơ hội để giảm thiểu sự ảnh hưởng đến hiệu ứng nhà kính của khí ga khi khí ga tổng hợp lấy được trong quá trình chuyển đổi từ than có lượng khí CO2 phát thải ra chỉ gần bằng 50% so với việc đốt than trực tiếp. Công nghệ UCG cũng có thể được kết hợp cùng với CCS khi ­­CO2 có thể được giữ lại trong túi than sau khi được khí hoá.
Công nghệ CTL bao hàm việc chuyển hoá than thành dạng chất đốt lỏng. Điều này giúp cho than có thể được tận dụng trở thành lựa chọn thay thế cho dầu vì không có lưu huỳnh, mật độ hạt thấp và ít oxit nitơ. Chất đốt dạng lỏng chiết xuất từ than có thể sử dụng trong vận tải, nấu nướng, cung cấp điện văn phòng và trong công nghiệp hoá chất. Tại Nam Phi, 30% lượng xăng dầu được chế tạo từ nguồn than trong nước.
Trong khi việc hoá lỏng than mang đến lượng lớn khí thải CO2, việc lọc dầu thông thường vẫn có những giải pháp nhằm ngăn chặn hoặc giảm nhẹ việc thoát ra khí ô nhiễm. Đối với các công trình hoá lỏng than, CCS là một phương pháp rất hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề về lượng khí thải CO2. Trong trường hợp sử dụng đồng thời than và khí tự nhiên, kết hợp với CCS, khí gây hiệu ứng nhà kính được phát thải trong toàn bộ quá trình sử dụng có thể thấp hơn 1/5 so với tiêu chuẩn.
Tất cả những công nghệ sản xuất năng lượng đều gây ảnh hưởng môi trường ở những cấp độ khác nhau. Tới nay, hàng loạt công nghệ giảm thiểu tác động môi trường và hàm lượng khí cacbon trong khai thác và sử dụng than đã được triển khai tại nhiều nước phát triển. Những công nghệ kiểm soát ô nhiễm cũng được áp dụng tại các nhà máy nhiệt điện dùng than tại các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc. Do ngày càng nhiều các quốc gia sử dụng than nhằm đáp ứng nhu cầu về năng lượng để phát triển kinh tế, nên các tổ chức tài chính quốc tế, như các ngân hàng phát triển cần phải tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các kĩ thuật tiên tiến trong vấn đề sử dụng than một cách bền vững.

Nguồn: vinamin/Tc ECOAL

công nghệmôi trườngthan

Dự kiến dừng xuất khẩu một số loại than cám từ năm 2014

  • 0
hangphuong
Thứ Năm, 24 Tháng Năm 2012 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Đó là nội dung được nêu trong dự thảo Thông tư hướng dẫn điều kiện kinh doanh than và xuất khẩu than, thay thế Thông tư số 04/2007/TT-BCT và Thông tư số 05/2007/TT-BCT, vừa được Bộ Công Thương công bố lấy ý kiến nhân dân.

nangluongvietnam.org

nangluongvietnam.org

Theo dự thảo, than chỉ được phép xuất khẩu khi đồng thời đảm bảo 2 yêu cầu: Có nguồn gốc hợp pháp và đạt tiêu chuẩn chất lượng hoặc tương đương tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.
Đặc biệt, đối với Than cám 4, Thông tư 05/2007/TT-BCT, trước đây quy định phải hạn chế xuất khẩu và dừng xuất khẩu từ năm 2016, nhưng tại dự thảo này đã yêu cầu phải dừng xuất khẩu loại than này ngay từ năm 2014.
Than cám 4 khai thác ở Hòn Gai – Cẩm Phả, Mạo Khê, Vàng Danh – Nam Mẫu; cỡ hạt từ 0 – 15mm.
Đồng thời, đối với Than cám 5, dự thảo yêu cầu phải dừng xuất khẩu từ năm 2014 thay vì hạn chế xuất khẩu và dừng xuất khẩu từ năm 2013 như quy định hiện hành.
Bên cạnh đó, đối với các loại Than cục, Than cám loại 1, 2, 3, thay vì phải dừng xuất khẩu sau năm 2015, theo Thông tư 05/2007/TT-BCT thì dự thảo quy định: Các loại than này đến sau năm 2015 phải hạn chế xuất khẩu.
Ngoài ra, theo quy định hiện hành tại Thông tư 05/2007/TT-BCT, Than cám 6 và Than cám chất lượng thấp hơn cám 6 phải dừng xuất khẩu từ năm 2011, nhưng theo nội dung trong dự thảo cho phép thời hạn dừng xuất khẩu các loại than này được kéo dài đến năm 2015.
Dự thảo còn quy định cách thức xử lý đối với một số trường hợp cá biệt như: Than đã qua chế biến, nhưng không thể đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định, hoặc xuất khẩu than để đối lưu nhập khẩu hàng hóa cần thiết cho sản xuất, kinh doanh… Trong các trường hợp trên, thương nhân xuất khẩu than phải báo cáo UBND tỉnh nơi thương nhân hoạt động để UBND tỉnh kiểm tra, xác nhận và đề nghị Bộ Công Thương xem xét, giải quyết.

Nguồn: Chinhphu

thanxuất khẩu

VEA kiến nghị giảm thuế xuất khẩu than xuống mức 0%

  • 0
hangphuong
Chủ Nhật, 20 Tháng Năm 2012 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Tại TP Hạ Long, Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vừa tổ chức Tọa đàm “Ngành Than – Khoáng sản Việt Nam với vai trò đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”. Tham gia buổi tọa đàm có đại diện của Ủy ban Kinh tế Quốc hội, các bộ (Tài chính, Công Thương), Hiệp hội Năng lượng Việt Nam – VEA, Tỉnh ủy Quảng Ninh, các chuyên gia kinh tế…

nangluongvietnam.org

nangluongvietnam.org

Ý kiến buổi tọa đàm đã tập trung vào một số vấn đề như: cơ chế nào, nguồn vốn ở đâu để đầu tư phát triển hạ tầng ngành Than đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, vấn đề giá than theo cơ chế thị trường, vấn đề xuất – nhập khẩu than, chiến lược đầu tư khoa học – công nghệ… Đặc biệt là đầu tư nghiên cứu, thăm dò, khai thác bể than sông Hồng.
Là tập đoàn kinh doanh đa ngành, tạo ra các chuỗi sản phẩm, giá trị gia tăng trên nền công nghiệp than – khoáng sản, bao gồm: khai khoáng, năng lượng, luyện kim, hóa chất, cơ khí, vật liệu xây dựng, xây lắp công trình, dịch vụ.
Bằng việc áp dụng mô hình tổ chức, chiến lược phát triển, cơ chế quản lý phù hợp đã giúp Vinacomin ngày càng phát triển, giải phóng năng lực sản xuất sẵn có, phát triển năng lực sản xuất đưa ngành Than bước vào thời kỳ phát triển mới.
Tại cuộc tọa đàm, lãnh đạo Vinacomin đã báo cáo hiện trạng cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý điều hành, hoạt động sản xuất, kinh doanh và nêu lên 11 nội dung kiến nghị về đầu tư khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản… nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu than cho nền kinh tế và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Kể từ khi thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam (1994) đến nay, ngành Than đã không ngừng phát triển, sản lượng khai thác than năm 2011 đã tăng 7,5 lần so với năm 1994, doanh thu tăng 45,6 lần so với năm 1995.
Ngoài sản phẩm than, Vinacomin đã phát triển nhiều loại sản phẩm mới như: điện, đồng, kẽm, vật liệu nổ công nghiệp… Vinacomin hiện có 66 đơn vị trực thuộc gồm: 5 tổng công ty, 18 công ty TNHH 1TV, 7 đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu, 4 công ty ở nước ngoài, 32 công ty cổ phần, ngoài ra còn có 11 công ty liên kết.
Trong những năm qua, Vinacomin đã gặp không ít những khó khăn, thách thức lớn do những bất cập trong sản xuất, kinh doanh như: giá bán than trong nước thấp, các chính sách thuế, phí ngày càng tăng cao, việc cấp phép tài nguyên của các bộ chuyên ngành quá chậm, quy định hiện hành về thủ tục, trình tự thực hiện đầu tư các dự án khai thác mỏ than chưa phù hợp với tính chất đặc thù đã làm chậm tiến độ dự án…
Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch VEA nêu vấn đề, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt kế hoạch phát triển ngành Than trong năm năm tới, với các danh mục dự án rất cụ thể (cải tạo mở rộng, nâng công suất 61 dự án mỏ hiện có, đầu tư xây dựng mới 28 dự án mỏ có công suất đến 2 triệu tấn/năm, đưa vào vận hành 6 dự án nguồn điện, thăm dò xong một phần tài nguyên và trữ lượng than sông Hồng)… Nhưng vấn đề là tiền ở đâu và bằng cơ chế, chính sách nào nào để Vinacomin thực thi các dự án đó?
Trong điều kiện giá than bán cho một số hộ ở trong nước đang ở mức dưới giá thành, chi phí sản xuất tăng, điều kiện khai thác ngày càng khó khăn… thì Chính phủ cần phải đẩy nhanh thị trường hóa giá than, bên cạnh đó là giảm mức thuế than xuất khẩu xuống mức 0%.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Văn Giàu ghi nhận những kết quả đạt được của Vinacomin thời gian qua trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Đối với những khó khăn, vướng mắc của Vinacomin sẽ được các cơ quan Quốc hội, Chính phủ quan tâm, trên cơ sở đặc thù của ngành Than, cũng như tình hình thực tiễn của đất nước.
Trong đó đặc biệt quan tâm tới các cơ chế, chính sách trong khai thác, quản lý tài nguyên và chính sách giá than…
Nguồn: NangluongVietnam.vn

thanthuếxuất khẩu

Tìm kiếm

Bài viết mới

  • Làm thế nào các nước trong G20 phát triển các chính sách tốt hơn để quản lý quá trình chuyển đổi năng lượng

    Hội đồng Năng lượng Thế giới công nhận giá trị ...
  • Diễn đàn đổi mới Power To X

    Vào ngày 17 tháng 6 năm 2019, Hội đồng Năng lượ...
  • Đại hội năng lượng thế giới lần thứ 24 sắp bắt đầu trong 100 ngày nữa!

    Sự kiện hàng đầu ba năm của Hội đồng Năng lượng...
  • Thông tin chi tiết mới! Cơ sở hạ tầng năng lượng: Khả năng chi trả Enabler hoặc ràng buộc khử cacbon?

    Hội đồng Năng lượng Thế giới đã đưa ra một Tóm ...
  • Hội thảo về Hydro được tổ chức bởi Hội đồng Năng lượng Thế giới

    Ngày 26 tháng 6, hội đồng năng lượng thế giới đ...

Chủ đề

  • Đội ngũ
    • Đối tác
    • Tình nguyện viên
  • Hoạt động & Dự án
    • Báo chí truyền thông
    • Nghiên cứu khoa học
    • Nghiên cứu pháp luật
    • Truyền thông, sự kiện
      • Hội thảo quốc tế BIOMASS
    • Tuyển dụng & Đào tạo
  • Tin tức
    • Tin hoạt động ngành năng lượng
    • Tin tức phát triển công nghệ
World Energy Council Vietnam

Chịu trách nhiệm nội dung: Titathy Nguyen © Bản quyền thuộc World Energy Council Vietnam

Hanoi City I Hotline: 09 71 73 69 69 | Email: info@wecvietnam.org

vi Vietnamese
ar Arabiczh-CN Chinese (Simplified)nl Dutchen Englishfr Frenchde Germanit Italianja Japaneseko Koreanpt Portugueseru Russianes Spanishvi Vietnamese