PHẦN I – NGHIÊN CỨU VỀ NHIÊN LIỆU Ở VIỆT NAM
A- Phần mở đầu:
I- Tình hình năng lượng ở Việt Nam
Để tạo ra 1.000 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn khoảng 600 kg dầu quy đổi, cao gấp 1,5 lần so với Thái Lan và gấp 2 lần mức bình quân của thế giới. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu. Theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, được thiên nhiên ưu đãi và có gần như tất cả các nguồn tài nguyên năng lượng, nhưng khả năng khai thác, chế biến và sử dụng ở nước ta còn hạn chế.
Giai đoạn 2010-2020 có thể xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng nội địa, và Việt Nam chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.
Tình trạng lãng phí năng lượng ở nước ta rất lớn. Hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy điện đốt than, dầu chỉ đạt 28-32%, thấp hơn so với các nước phát triển 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới chừng 20%.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần (tức là để làm ra một giá trị sản phẩm như nhau, nước ta phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần). Tỷ lệ giữa tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam lên đến 2 lần, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là dưới 1.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp sản xuất xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh… của nước ta có thể đạt trên 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể lên tới trên 30%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ. Chi phí bỏ ra để tiết kiệm 1 kWh điện năng ít hơn nhiều so với chi phí đầu tư để sản xuất ra 1 kWh trong các nhà máy điện.
Ngoài ra, do hơn 80% nguồn năng lượng nước ta sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhiên liệu có nguồn gốc hữu cơ nên quá trình cháy nhiên liệu nói riêng và hoạt động năng lượng nói chung đều là những nhân tố lớn tham gia gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng năng lượng tạo ra khoảng 25% lượng phát thải CO2 và khoảng 15% tổng lượng khí nhà kính.Vì vậy, nếu tiết kiệm sử dụng năng lượng cũng có nghĩa là giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Ngành điện mỗi năm phải tăng trưởng đến 14-15% mới đáp ứng được yêu cầu tăng 6-8% GDP, trong khi bình quân thế giới, để tăng 1% GDP cũng chỉ tăng 1,2 – 1,5% năng lượng tiêu thụ.
Về nguyên nhân gây lãng phí và sử dụng không hiệu quả năng lượng, là do công nghệ lạc hậu; điện bị cắt giảm thường xuyên; hệ thống thiết bị, đường dây truyền tải ở một số khu vực đã quá cũ, chưa được thay thế; mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chưa đặt ra đúng tầm quan trọng; công tác quản lý sử dụng năng lượng còn nhiều bất hợp lý…
Việc tách rời khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng là không hiệu quả. Sản xuất phải gắn liền với sử dụng bởi nếu sản xuất thừa thì tiết kiệm mấy cũng không hiệu quả. Do đó việc khai thác và sử dụng phải là quy trình khép kín.
Đứng ở góc độ người dân, ai cũng mong muốn sử dụng năng lượng hiệu quả trong khi tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của chúng ta hiện nay rất lãng phí. Ngành điện thiếu điện nên cắt, người dân dùng ít điện cũng tiết kiệm nhưng tính hiệu quả thì chưa chắc đã có. Hao phí trên đường truyền tải đổ hết vào giá điện cho người dân. Như vậy gây nên sự lãng phí . Nếu chỉ khoanh lại trong phạm vi sử dụng thì không thỏa đáng.
Theo dự án Luật, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo…Các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng sẽ được quản lý chặt chẽ để từng bước nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng thông qua hoạt động dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Tiến tới loại bỏ dần các trang thiết bị, công nghệ tiêu tốn năng lượng. Chuyển giao công nghệ sử dụng nhiên liệu tái sinh, nhiên liệu sinh học trong giao thông vận tải…
Nguồn:Lê Xuân Thịnh
Hội nghị quốc tế về phát triển bền vững của LHQ (Rio+20) đã kết thúc, với 700 cam kết cụ thể, tổng trị giá 513 tỷ USD để đạt được một tương lai bền vững. Tuy nhiên, Tổng thư ký hội nghị Sha Zukang thừa nhận: “kết quả này không làm ai hài lòng và những gì đạt được chỉ khiến mọi người không hạnh phúc”.

“513 tỷ USD sẽ không làm ai hài lòng. Những gì đạt được chỉ khiến mọi người không hạnh phúc” – (Tổng thư ký hội nghị Sha Zukang).nangluongvietnam.org
Tuy nhiên, Tổng thư ký hội nghị Sha Zukang thừa nhận: “kết quả này không làm ai hài lòng. Những gì đạt được chỉ khiến mọi người không hạnh phúc”. Quả thật, sau nhiều tháng soạn thảo và kỳ vọng về thành công của Rio+20, cuối cùng các nhà đàm phán đành phải chấp nhận kết quả ở mức thấp nhất.
Chỉ trong vòng vài giờ trước khi hội nghị khai mạc vào 20-6, các nhà đàm phán đã nhất trí với các đề nghị hầu như chẳng khác gì so với Hội nghị thượng đỉnh Trái đất 1992.
Ông Martin Khor, Giám đốc điều hành trụ sở phía Nam ở Geneva và là thành viên của Ủy ban LHQ về chính sách phát triển, nhận định: “Chúng ta đã quá hy vọng và tái khẳng định những gì mà cách đây 20 năm đã được coi là thành công”.
Thật vậy, cụm từ “tái khẳng định” được sử dụng đến 59 lần trong xấp tài liệu 49 trang có tựa đề “Tương lai chúng ta muốn”. Tái khẳng định sự cần thiết để phát triển bền vững (nhưng không nói bằng cách nào), tái khẳng định cam kết tăng cường hợp tác quốc tế (không phải ngay lúc này) và tái khẳng định ổn định kinh tế (mà không có thêm viện trợ mới cho các quốc gia nghèo nhất).
Nhiều nhà hoạt động môi trường nổi tiếng muốn nhìn thấy trong tài liệu trên những điều chưa bao giờ có, như kêu gọi ngưng trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, nhấn mạnh quyền sinh sản của phụ nữ, hay làm thế nào để các quốc gia cùng nhau bảo vệ vùng biển.
Giám đốc tổ chức Hòa bình xanh Kumi Naidoo thậm chí còn cho biết, những mục tiêu mà Hội nghị Trái đất 1992 đề ra đang bị loại bỏ dần dần, không có nhà lãnh đạo trên thế giới nào có thể thực sự mang đến “Tương lai chúng ta muốn”.
Thêm một thất vọng nữa là dù kinh tế toàn cầu đang chuyển dịch với sự nổi lên của các quốc gia như: Trung Quốc và Brazil cùng nhiều nước thu nhập trung bình khác, các nhà đàm phán vẫn còn tranh luận theo quan điểm cũ, ưu tiên các nước phát triển giàu có hơn. 77 quốc gia nghèo nhất trên địa cầu vẫn tiếp tục yêu cầu châu Âu và Mỹ thừa nhận những “món nợ lịch sử” khi đã ngốn đi phần lớn tài nguyên của địa cầu trong cuộc cách mạng công nghiệp 250 năm trước đây.
Các quốc gia này muốn phương Tây tài trợ nhiều hơn để cải thiện môi trường ở các nước nghèo và tự do chuyển giao công nghệ để giúp các quốc gia đang phát triển có thể sử dụng nhiều loại năng lượng tái tạo hơn và xây dựng ngành công nghiệp sạch hơn.
Tuy nhiên, tiến sĩ Kerri-Ann Jones, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề đại dương, môi trường quốc tế và khoa học, phản bác nhóm 77 nước này không nên đề cập chuyện quá khứ trong khi tranh luận.
Đại diện của Mỹ cho rằng, phải coi đây là một quá trình và chỉ nên nhìn vào những gì tích cực đã làm được, cần tiếp tục hành động vì còn rất nhiều việc để làm.
Nguồn: SGGP
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã có bài phát biểu quan trọng tại phiên họp toàn thể của Rio+20, khẳng định quan điểm, đồng thời gửi thông điệp của Việt Nam đối với phát triển bền vững trong tương lai.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phát biểu tại Hội nghị Rio+20.nangluongvietnam.org
Chính phủ Việt Nam coi phát triển bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay và trong tương lai. Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện Chương trình Nghị sự 21 quốc gia và các chiến lược phát triển đất nước. Nhờ những nỗ lực to lớn của Chính phủ và nhân dân, cùng với sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều thách thức, khó khăn và đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Từ năm 1992 đến năm 2011, Việt Nam đạt tăng trưởng GDP bình quân 7,41%/năm. Việt Nam đã từ nhóm nước thu nhập thấp bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình, giá trị GDP bình quân đầu người năm 1992 mới đạt xấp xỉ 150 USD, năm 2011 đã đạt 1.300 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 còn 11,76% vào năm 2011.
Việt Nam hoàn thành phổ cập tiểu học vào năm 2000, phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 và triển khai phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, mục tiêu hoàn thành vào năm 2015.
Tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch đến năm 2011 đạt 92%. Tỷ lệ người dân có bảo hiểm y tế là 63%. Tuổi thọ trung bình người dân là gần 74 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ sinh viên đại học cao đẳng là 51%/49%.
Thay mặt cho Chính phủ Việt Nam, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã nêu 3 đề xuất quan trọng với Hội nghị Rio+20.
Một là, Liên Hợp quốc cần đưa ra tập hợp các mục tiêu phát triển bền vững hướng tới 2020 và 2030, thành lập một cơ chế giám sát và đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững. Các mục tiêu phát triển bền vững cần có tính phổ cập và áp dụng được cho tất cả các quốc gia, nhưng cho phép các cách tiếp cận phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia, thể hiện sự gương mẫu và trách nhiệm của các nước có trình độ phát triển cao.
Hai là, tại các khu vực trên thế giới như Đông Á, Đông Nam Á, Bắc và Nam Mỹ, cần bố trí hợp lý các trung tâm khu vực về kinh tế xanh. Các trung tâm này sẽ theo dõi các chỉ số chính về kinh tế xanh của các quốc gia trong khu vực, tư vấn xây dựng chính sách và các thực tiễn tốt cho các quốc gia, tổ chức các hội thảo định kì sáu tháng về kinh tế xanh, giúp Liên Hợp quốc chuẩn bị và công bố các báo cáo thế giới định kì sáu tháng về kinh tế xanh, và tổ chức các hội nghị thế giới về kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Ba là, Việt Nam kêu gọi Liên Hợp quốc thành lập một mạng lưới và xây dựng một chương trình nhằm ứng phó với nước biển dâng nhanh chóng và hiệu quả, kết hợp kiến thức, kĩ thuật và nguồn lực của các quốc gia phát triển và đang phát triển nhằm ứng phó với vấn đề toàn cầu này. Việt Nam sẵn sàng làm thành viên tích cực của mạng lưới này của Liên Hợp quốc.
Nguồn: chinhphu
Trong thông điệp gửi Hội nghị thượng đỉnh của nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) khai mạc vào ngày hôm nay (18/6) tại Los Cabos của Mexico, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã kêu gọi các nhà lãnh đạo cấp cao G-20 cần chú tâm giải quyết cuộc khủng hoảng việc làm thông qua thúc đẩy phát triển bền vững và kinh tế xanh.

nangluongvietnam.org
Cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ ở Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), sự bất ổn định tại các thị trường tài chính, cộng với tình trạng giá cả hàng hóa leo thang tiếp tục là gánh nặng đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.
Ông Ban Ki-moon nhấn mạnh: Đẩy nhanh quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế xanh thải ít khí thải có thể góp phần tạo việc làm, xóa đói nghèo và tăng cường sự phát triển bền vững.
Người đứng đầu thể chế đa phương lớn nhất thế giới này kêu gọi các nhà lãnh đạo G-20 tập trung giải quyết vấn đề việc làm thông qua các chính sách đầu tư có hiệu quả, cũng như các biện pháp kích thích tăng trưởng trong ngắn hạn.
Theo các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới, tăng đầu tư vào năng lượng sạch, vận tải bền vững và khai thác tài nguyên thiên nhiên thân thiện với môi trường là biện pháp tốt nhất để thúc đẩy sự tăng trưởng thực tế của kinh tế toàn cầu.
Kinh tế xanh sẽ giúp các nước có thể đạt được các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) đúng hạn vào năm 2015.
Nguồn: NangluongVietnam
Biến đổi khí hậu (BÐKH) là một trong những thách thức lớn nhất trong thế kỷ 21, tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn cầu. BÐKH còn làm thay đổi toàn diện, sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu như: năng lượng, lương thực, nước, đồng thời ảnh hưởng đến các vấn đề về an toàn xã hội, văn hóa, ngoại giao và thương mại. Nếu các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, không có phương án phù hợp, hài hòa giữa chính sách quốc gia và quốc tế thì khó vượt qua được các rào cản này…

nangluongvietnam.org
Tác động BÐKH và nỗ lực ứng phó
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước bị tác động mạnh mẽ bởi BÐKH, đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng. Trong vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình ở nước ta đã tăng khoảng 0,50C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm.
Biến đổi khí hậu đã làm cho thiên tai ngày càng khốc liệt, gây nhiều tổn thất về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, tác động xấu đến môi trường sống. Nếu mực nước biển dâng cao 1 m, kéo theo khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển bị ngập. Thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10 -12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP.
Nhận thức rõ tác động nghiêm trọng của BÐKH đến sự phát triển bền vững của đất nước, Chính phủ đã có những nỗ lực quan trọng ứng phó. Theo đó, từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho ứng phó với BÐKH; phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BÐKH và Chiến lược quốc gia về BÐKH; xây dựng các kịch bản BÐKH; triển khai Chương trình khoa học và công nghệ về BÐKH; các bộ, ngành và địa phương triển khai kế hoạch hành động ứng phó với BÐKH; công tác đàm phán, kêu gọi tài trợ quốc tế được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả khả quan.
Tuy nhiên, các hoạt động ứng phó với BÐKH chú trọng nhiều đến các tác động tiêu cực mà chưa quan tâm đúng mức đến việc chuyển đổi lối sống, mẫu hình sản xuất và tiêu thụ theo hướng tăng trưởng xanh, ứng phó với BÐKH song song với phát triển nhằm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong ứng phó với BÐKH của Việt Nam là việc thích ứng cần phải được coi là vấn đề trọng tâm. Thích ứng với BÐKH cần được lồng ghép vào quy hoạch phát triển KT-XH ở các quy mô. Thích ứng sẽ là một quá trình liên tục trong nhiều thập kỷ với những nhu cầu riêng biệt, nhưng liên quan với nhau ở các giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đặc biệt là rất cấp thiết ở cấp địa phương.
Ðầu tư cho các biện pháp thích ứng, cụ thể là cho cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ giảm được chi phí rất lớn trong tương lai. Cần đánh giá các kế hoạch mở rộng thành phố, khu công nghiệp mới, dịch vụ môi trường và cơ sở hạ tầng.
Ðầu tư để tăng cường khả năng chống chịu với BÐKH thông qua việc tạo công ăn việc làm, bảo vệ cuộc sống và tài sản của nhân dân. Thích ứng trong nông nghiệp cần được quan tâm, thông qua phát triển các loại cây trồng chịu được điều kiện khí hậu khắc nghiệt, phát triển các cơ chế bảo hiểm và các ứng dụng nghiên cứu và triển khai nông nghiệp. Tăng cường quản lý rủi ro thiên tai cũng là một ưu tiên…
Rào cản, thách thức và cơ hội
Sau Hội nghị BÐKH toàn cầu lần thứ 17 tại Nam Phi năm 2011, trên thế giới đang hình thành các chính sách về giảm phát thải khí nhà kính (KNK) có thể tạo ra các rào cản mới trong thương mại. Một số chính sách về vấn đề này như:
EU và Hoa Kỳ dự kiến đưa loại rào cản “điều chỉnh biên giới cácbon” nhằm tạo ra sự cân bằng về sân chơi cho các nhà sản xuất trong nước đối với hàng hóa nhập từ các nước đang phát triển thiếu những quy định nghiêm ngặt về phát thải KNK.
Ô-xtrây-li-a công bố kế hoạch đánh thuế 23 đôla Ô-xtrây-li-a cho mỗi tấn khí thải cácbon. Pháp dự kiến đánh thuế 17 Ơ rô vào mỗi tấn khí thải cácbon. EU áp dụng thuế cácbon trong lĩnh vực hàng không, quy định các chuyến bay đến khu vực này phải “mua lại” 15% lượng khí thải của mình. EU dự kiến sử dụng “thuế quan xanh” đối với hàng hóa được một số tổ chức phi chính phủ chứng nhận là “bền vững”…
Những rào cản đã, đang và sẽ hình thành trên quy mô khu vực, toàn cầu sẽ tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, vốn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và lợi thế lao động rẻ.
Trong tương lai gần, mô hình sản xuất tiêu thụ nhiều năng lượng, làm tăng lượng phát thải KNK của nước ta sẽ không phù hợp với xu thế chung, đòi hỏi mỗi quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển phải có những hành động giảm phát thải KNK. Từ góc nhìn đó, giảm nhẹ BÐKH nên được coi là cơ hội kinh tế, xã hội và môi trường. Giảm phát thải trên một đơn vị GDP nên là hướng tiếp cận, theo mô hình tăng trưởng xanh – cácbon thấp, đặt mục tiêu giảm nhẹ phát thải để bảo đảm an ninh năng lượng.
Chiến lược phát triển cácbon thấp cần có những ưu tiên rõ ràng và có hệ thống giám sát và báo cáo. Các hành động giảm nhẹ phù hợp của quốc gia (NAMA) có thể sẽ đóng vai trò quan trọng để nhận sự hỗ trợ tài chính và công nghệ quốc tế.
Chiến lược đầu tư cho thích ứng và giảm nhẹ BÐKH là cần thiết, khuyến khích các cơ chế sáng tạo, gồm cả tài chính, để cạnh tranh và bảo đảm đầu tư quy mô lớn, kết hợp các nguồn tài chính khác nhau. Thích ứng có thể sẽ chủ yếu do đầu tư công, được sắp xếp ưu tiên theo thời gian, địa lý và theo từng ngành, và cần có kế hoạch vận động hỗ trợ quốc tế. Giảm nhẹ BÐKH chủ yếu có thể sẽ do đầu tư từ các doanh nghiệp. Cần có các chính sách tài chính và các quy định để vừa ứng phó với BÐKH vừa tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Có nhiều cơ hội thu hút tài chính quốc tế có thể tận dụng, gồm: đầu tư trực tiếp; thị trường cácbon và các cơ chế song phương và đa phương, bao gồm Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ Môi trường toàn cầu, Quỹ Thích ứng BÐKH, và Quỹ Ðầu tư khí hậu.
An ninh năng lượng và giá năng lượng sẽ là các yếu tố chi phối kinh tế toàn cầu. Các công ty dầu mỏ lớn đã chuẩn bị đầu tư cho các nguồn năng lượng mới, nhiều nước đã đặt mục tiêu năng lượng tái tạo để thay thế phần lớn hoặc hầu hết điện năng vào năm 2050.
Có nhiều cơ hội cho các ngành kinh doanh ít cácbon, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà một trong những nhà máy sản xuất pin năng lượng mặt trời lớn trên thế giới sẽ được xây dựng. Ðầu tư như vậy sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn và tăng năng lực cạnh tranh cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô lâu dài. Ngành công nghiệp ít cácbon đòi hỏi phải đo được phát thải, sử dụng năng lượng ở cấp cơ sở; thực hiện các mục tiêu giảm năng lượng và kiểm toán năng lượng cho các cơ sở chính; xây dựng được các thủ tục báo cáo sử dụng năng lượng và khí thải ở cấp cơ sở.
Nguồn: PGS, TS. Trần Thục
Ngày 20/6, 135 lãnh đạo nhà nước, chính phủ và khoảng 50.000 đại biểu là giám đốc doanh nghiệp và đại diện xã hội dân sự sẽ có mặt tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp quốc về Phát triển Bền vững (Rio+20) tại thành phố Rio de Janeiro của Brazil. Khác với quan điểm coi Rio chỉ là hội nghị của các nhà lãnh đạo, các nhân vật tên tuổi, thông qua chủ đề chính năm nay “Tương lai chúng ta muốn” (The Future We Want), Rio+20 muốn truyền tải tới mọi người thông điệp về một lộ trình xanh hướng đến tương lai bền vững có sự tham gia của cả cộng đồng.

nangluongvietnam.org
Phát triển bền vững
Có một nghịch lý là nhân loại nói chung đang sống và tiêu thụ các nguồn lực với mức độ nhiều gấp 5 lần sức cung của Trái đất, trong khi đó thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và vẫn còn một bộ phận không nhỏ người dân đang phải sống trong thiên tai, đói nghèo, dịch bệnh…
Trong bối cảnh ấy, phát triển bền vững (PTBV) được xem là con đường duy nhất giúp nhân loại giải quyết những thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường mà hàng tỷ người đang phải đối mặt, bao gồm: mặt trái của cơn suy thoái kinh tế toàn cầu, tình trạng thiếu an ninh năng lượng, khan hiếm nước, giá lương thực cao, tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu và sự gia tăng về tần số xuất hiện cũng như tính khắc nghiệt của các thảm họa tự nhiên…
Nền tảng của một tương lai phát triển bền vững biểu hiện qua những tiêu chí hết sức nhân văn như, cung cấp lương thực cho hàng triệu người nghèo đói, tạo việc làm ổn định cho người dân, giúp họ được tiếp cận nước sạch, được hít thở bầu không khí trong lành hay dạo bộ trong một khu rừng tràn ngập sự sống…
Hơn thế, phát triển bền vững sẽ đảm bảo mọi phụ nữ đều có cơ hội công bằng và mọi trẻ em có thể được đến trường, được hưởng các điều kiện vệ sinh cơ bản, được lớn lên trong một môi trường xã hội toàn diện và được quyền hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tương lai chúng ta muốn
Kêu gọi phát triển bền vững là thông điệp mà Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất (Rio) 20 năm trước đã đề ra. Không có tính ràng buộc về pháp lý, Hội nghị Rio chỉ mang tính khuyến khích, giúp các cá nhân, cộng đồng địa phương, doanh nghiệp và chính phủ có được những lựa chọn sáng suốt hơn, hiệu quả hơn góp phần cải thiện tình trạng nền kinh tế – xã hội mà không làm phá hủy hành tinh.
Rio chính là cơ hội tốt cho các nhà lãnh đạo thể hiện cam kết xây dựng một thế giới bền vững về cả ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời chọn ra những chính sách phù hợp vì con người, vì hành tinh tương lai.
Đây cũng là cơ hội để chúng ta cùng đề xuất một lộ trình khoa học, hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu phát triển bền vững (SDG), từ đó bổ sung và củng cố các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG).
Đặc biệt, Hội nghị Rio+20 được kỳ vọng sẽ trở thành nơi hội tụ những hành động thúc đẩy kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, kêu gọi tập trung vào vấn đề tạo công ăn việc làm phù hợp, mỗi năm đưa gần 80 triệu thanh niên gia nhập lực lượng lao động; triển khai các kế hoạch bảo vệ xã hội, hòa nhập xã hội; tiếp cận năng lượng, sử dụng tiết kiệm và bền vững năng lượng …
Nêu cao chủ đề “Tương lai chúng ta muốn”, Rio lần này sẽ tiếp tục khẳng định mối liên hệ bền chặt giữa con người với con người, cho rằng mục tiêu, khát vọng và kết quả của Hội nghị phụ thuộc vào tất cả chúng ta, cho rằng tương lai đều do chúng ta và các thế hệ tương lai quyết định.
Tham gia Rio+20, các chính phủ sẽ đóng vai trò quyết định khung thể chế nào là tốt nhất để đẩy mạnh các chương trình nghị sự về phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng cần tạo điều kiện cho xã hội dân sự và khu vực tư nhân tham gia và thể hiện vai trò của mình. Đổi lại, xã hội dân sự có thể đứng lên thúc đẩy các chính phủ đảm bảo tiếng nói của những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.
Bản thân các doanh nghiệp và các ngành kinh tế có thể đóng góp vào lộ trình phát triển bằng cách ứng dụng những loại hình công nghệ giúp thế giới thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, tạo ra được nhiều việc làm xanh và ảnh hưởng tích cực đến xã hội thông qua trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Và mỗi người dân đều có phần trách nhiệm đóng góp thông qua những hành động, việc làm dù là nhỏ nhất.
Nguồn: ThienNhien.Net
Trong báo cáo mới nhất về tiến bộ của nguồn nhân lực trong biến đổi khí hậu (Chương trình Phát triển LHQ – UNDP) khẳng định, tương lai của thế giới phụ thuộc rất nhiều vào những lựa chọn con đường phát triển bền vững ít khí thải gây hiệu ứng nhà kính của châu Á – Thái Bình Dương, nơi sinh sống của hơn 50% dân số thế giới và hơn 50% số siêu thành phố trên toàn cầu.

nangluiongvietnam.org
Thành công hay thất bại của các nước này sẽ tác động lớn đến toàn thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương phải tiếp tục tăng trưởng kinh tế để cứu hàng trăm triệu người khỏi đói nghèo, nhưng cũng phải có giải pháp thích hợp trước các hiểm họa biến đổi khí hậu để tồn tại.
Mô hình ưu tiên tăng trưởng trước, làm sạch môi trường sau không thể là một lựa chọn phát triển của các nước khu vực này.
Mục tiêu của khu vực đã rõ ràng: Giảm đói nghèo, tăng thịnh vượng phải song hành với giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính đến mức thấp nhất.
Báo cáo của UNDP nêu rõ, châu Á – Thái Bình Dương không chỉ phải hành động khẩn cấp để giảm khí thải mà còn có nhiều cơ hội khác nhau để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển.
Để phản ứng hiệu quả trước biến đổi khí hậu, các nước trong khu vực cần thay đổi phương thức sản xuất hàng hóa, tăng mùa vụ cây trồng và chăn nuôi, tạo nhiều nguồn năng lượng theo hướng xanh hơn, giảm khí thải lớn hơn nhằm đảm bảo bền vững môi trường và tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo.
Châu Á – Thái Bình Dương đã nổi lên như là công xưởng toàn cầu đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thế giới, nhưng các nước đang phát triển của khu vực đã tiêu dùng tới 80% lượng tiêu thụ than của thế giới và 85% nguồn năng lượng then chốt của khu vực là từ nguồn nhiên liệu hóa thạch gồm: than, dầu mỏ và khí đốt.
Các nước châu Á cũng thải ra 37% tổng lượng khí thải toàn cầu từ sản xuất nông nghiệp. Châu Á-Thái Bình Dương là thị trường tiêu dùng lớn, nhưng bất bình đẳng. Hơn 900 triệu người sống dưới mức nghèo khổ, 1,9 tỷ người chưa được tiếp cận các điều kiện vệ sinh cơ bản, nhưng có tới 2,5 tỷ thuê bao điện thoại di động.
Báo cáo của UNDP đề xuất 8 biện pháp để châu Á – Thái Bình Dương tăng khả năng phản ứng trước biến đổi khí hậu và giảm nhanh lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, đó là: Khuyến khích quá trình chuyển nhanh sang công nghệ xanh, giảm nhanh lượng khí thải từ công nghiệp, thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh hơn, hỗ trợ sản xuất năng lượng sạch hơn, cải thiện cuộc sống của người nghèo ở thành phố và nông thôn, mở rộng tài chính từ các các nguồn trong nước, quốc tế, tài chính công và tư nhân, tăng cường nguồn tri thức về biến đổi khí hậu cho công dân, tăng cường hợp tác xuyên biên giới để chia sẻ kinh nghiệm và các đường lối xử lý biến đổi khí hậu hiệu quả.
Mới đây, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vừa khuyến cáo các nước châu Á – Thái Bình Dương cần dành ưu tiên, tăng đầu tư cho quản lý rủi ro thiên tai đô thị.
Theo ADB, bảo vệ tài sản đô thị cần phải là một trong những ưu tiên hàng đầu, bởi 2/3 dân số châu Á được dự báo sẽ sống ở các thành phố vào năm 2050 – nơi sẽ đóng góp tới 70% GDP của khu vực, trong khi nhiều thành phố lớn của châu Á đang nằm tại các địa điểm dễ bị lũ lụt, bão nhiệt đới, nước biển dâng, động đất và sóng thần đe dọa.
Theo đó, chính phủ các nước châu Á cần chú trọng đúng mức và tăng đầu tư cho quản lý rủi ro thiên tai đô thị, bởi theo tính toán của các nhà kinh tế, cứ 1 USD chi cho lĩnh vực này sẽ giúp giảm được 7 USD thiệt hại kinh tế do thiên tai gây ra.
Thiệt hại trung bình hàng năm do thiên tai gây ra cho châu Á – Thái Bình Dương vào khoảng 53,8 tỷ USD, do vậy việc chuyển trọng tâm từ phục hồi và tái thiết sau thiên tai cho đầu tư vào việc thích ứng, phòng ngừa, bảo vệ và giảm thiểu rủi ro trước thiên tai sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nhiều, cả về người lẫn của.
Nguồn: Bộ TN&MT