Ủy ban Việt Nam

  • Đại hội Năng lượng Thế giới lần thứ 24
  • Cuộc thi Startup Năng lượng Toàn cầu
  • Nghiên cứu năng lượng
  • Trang tin ngành năng lượng
  • Lịch sự kiện
  • Trang chủ
  • Hội đồng thế giới
  • Ủy ban Việt Nam
  • Mạng lưới
  • Hoạt động
  • Báo chí
  • Tin mới

Luật năng lượng tái tạo: Tại sao không?

  • 0
hangphuong
Chủ Nhật, 10 Tháng Tư 2016 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 5% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2020 và khoảng 11% nào năm 2050. Song việc đề ra mục tiêu là cần, nước ta phải có luật năng lượng tái tạo mới là điều kiện đủ thúc đẩy ngành năng lượng này phát triển.Vì vậy cần thay đổi tư duy lỗi thời về năng lượng tái tạo
    Kinh nghiệm từ các nước dẫn đầu
Thế giới đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ trong ngành năng lượng. Xu thế mới mà các quốc gia đang theo đuổi là hạn chế phát triển mới các công trình năng lượng hóa thạch, thay vào đó đẩy mạnh chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nhằm giảm nhu cầu điện và khuyến khích sử dụng nhiều năng lượng tái tạo (NLTT) hơn trong cán cân năng lượng.
Bằng tầm nhìn chiến lược và những bước đi dài hơi, CHLB Đức đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới xây dựng chiến lược nền kinh tế “năng lượng xanh”. Luật Năng lượng tái tạo của Đức (EEG) được xây dựng và có hiệu lực năm 2000, trong đó quy định cụ thể mức giá ưu đãi đối với mỗi kWh điện gió. Chính sách này, cùng với mức giá ưu đãi về giá điện gió Chính phủ Đức thực hiện từ năm 1991, đã tác động tích cực tới sự phát triển năng lượng gió của nước này. Trong quá trình thực hiện, EEG thường xuyên được điều chỉnh, sửa đổi để phù hợp với thị trường và thực tế phát triển công nghệ mới. Cạnh đó, Luật Xây dựng của Đức cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển nguồn năng lượng này, thậm chí, các nhà máy năng lượng gió được xếp vào danh mục “các dự án đặc quyền” với cơ chế ưu tiên cụ thể.
Những chính sách linh hoạt và mềm dẻo đó đã giúp nước Đức phát triển thành công thị trường điện gió, chỉ trong 10 năm (2001 – 2010) tổng công suất lắp đặt tăng từ 8.754 MW (năm 2001) lên 27.214 MW (năm 2010), chiếm 25% công suất điện gió thế giới. Năng lực sản xuất điện gió, theo Hiệp hội Năng lượng gió Đức (BWE), cung cấp khoảng 25% sản lượng điện tiêu thụ của cả nước. Nước này có thể lưu trữ 45.000 MW trên bờ và 10.000 MW điện gió ngoài khơi vào năm 2020, tạo ra khoảng 150 TWh/năm. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển kinh tế, công nghiệp điện gió được xem là một trong những trụ cột của nước này, với khả năng công nghệ thuộc loại hàng đầu thế giới, có thể cung cấp thiết bị cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2008, doanh thu từ xuất khẩu thiết bị điện gió của Đức đã đạt 12 tỷ Euro.
Hiện nước Đức đang có nhiều nỗ lực để trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế giới sử dụng 100% “năng lượng xanh” tái tạo và hướng tới “mục tiêu xanh” vào năm 2050. Bộ Môi trường Đức mới đây đã công bố Bản lộ trình mới phác thảo tiến trình thực hiện các kế hoạch hướng tới một nền kinh tế sử dụng hoàn toàn NLTT. Năm 2008, NLTT chiếm 7% tổng lượng tiêu thụ năng lượng gốc của Đức, nhưng con số dự đoán sẽ tăng lên 33% vào năm 2020 khi nước này nhanh chóng vượt lên các quốc gia châu Âu khác trong phát triển nguồn năng lượng này.
Việc có nhiều tài nguyên NLTT là nền tảng để nước Đức đưa ra nhiều biện pháp, kế hoạch nâng cao hiệu suất năng lượng. Theo Bản lộ trình, việc xây dựng mạng lưới “điện thông minh”, giảm tiêu thụ điện năng khoảng 28% trong vòng 20 năm tới, từ 384,5 tỉ kWh năm 2007 xuống 333,3 tỉ kWh vào năm 2020 và 277,7 tỉ kWh vào năm 2030. Thực hiện kế hoạch giảm tiêu thụ năng lượng, nước Đức sẽ tiết kiệm được hàng tỉ USD chi trả cho nhập khẩu năng lượng. Ước tính đến năm 2030, nước Đức sẽ có tới 50% năng lượng điện tiêu thụ lấy từ nguồn NLTT.
Chiến lược năng lượng mới nhằm tạo lập một nền “kinh tế xanh” không chỉ là giải pháp phát triển bền vững, mà còn là một trong những cứu cánh để tránh thảm họa khôn lường do biến đổi khí hậu gây ra. Cùng với Đức, Ấn Độ cũng là một trong những nước dẫn đầu thế giới về công suất điện gió, với chính sách đa dạng hóa nguồn năng lượng vào năm 1980. Cơ quan Nguồn năng lượng được chuyển thành Bộ Năng lượng, đã tiến hành nghiên cứu, xác định, triển khai các dự án điện gió và đưa vào khai thác.
Những chính sách khuyến khích phù hợp, những kết quả nghiên cứu kỹ thuật chi tiết và định hướng phát triển rõ ràng của Chính phủ Ấn Độ đã thu hút các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đầu tư và phát triển thị trường điện gió hiệu quả mà không cần sự đầu tư lớn của Nhà nước. Một loạt các doanh nghiệp, trong đó 97% là doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư vào sản xuất các thiết bị phát điện và phục vụ xuất khẩu. Năm 2000, Ấn Độ mới có 1.220 MW điện gió, nhưng sau 5 năm, công suất điện gió của nước này đã tăng lên 3 lần, đạt mức 3.595 MW. Riêng năm 2004, đã lắp đặt được tuabin điện gió mới với tổng công suất 1.112 MW, đưa Ấn Độ vươn lên hàng thứ năm trên thế giới về công suất, sau CHLB Đức, Tây Ban Nha, Anh và Mỹ. Trong quá trình thực hiện, Chính phủ Ấn Độ tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý phù hợp cũng như có biện pháp kiểm tra, giám sát đảm bảo đầu tư của khu vực tư nhân không đi ngược lại lợi ích của xã hội.
Thành công của Đức hay Ấn Độ về NLTT là do chính sách vĩ mô, sự đầu tư đúng đắn về chiến lược nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ và sản xuất để có được giá thành thấp hơn nhiều so với nhập khẩu và nội địa hóa sản phẩm giá thành rẻ và tạo rất nhiều công việc cho tăng trưởng xanh từ ngành này.
     Cần có luật năng lượng tái tạo
Việt Nam là một trong những nước được đánh giá có nhiều tiềm năng về năng lượng gió. Theo như tính toán của Ngân hàng thế giới (WB), tiềm năng điện gió của Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á, với tổng công suất ước tính khoảng 513.360MW gấp 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện về nhu cầu điện của đất nước ta vào năm 2020. Đây là mức tính cho tốc độ gió khá từ 6m/s trở lên (Tiềm năng do WB đưa ra là tổng tiềm năng NL gió chứ không phải chỉ NL gió, cho gió có vận tốc từ 6m/s. Ngoài ra, cách đánh giá NL gió của WB dựa trên các phân tích số liệu từ vệ tinh nên độ chính xác không cao. Tiềm năng 513.360MW là quá lạc quan), chỉ riêng tỉnh Ninh Thuận, trung tâm NLTT của cả nước, tiềm năng gió đã hơn cả một số nước khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, nước ta đang bỏ qua những lợi thế của đất nước như NLTT, nhiên liệu sinh học, nông nghiệp… đặc biệt, với định hướng về tầm nhìn và chiến lược, đầu tư cho phát triển NLTT, xây dựng ngành công nghiệp điện gió còn xa rời thực tế của nước ta thì việc phát triển nguồn năng lượng sạch này vẫn chỉ là tiềm năng. Ông Đặng Quốc Toản – Giám đốc Công ty Cổ phần năng lượng dầu khí châu Á tại “Hội thảo Năng lượng gió Việt – Đức” cuối năm 2015, đã thẳng thắn chỉ rõ việc thiếu luật về NLTT đã dẫn đến những hạn chế phát triển nguồn năng lượng này.
Theo Viện Năng lượng, các dự án sản xuất điện từ NLTT ở Việt Nam đã tăng gấp đôi từ năm 2000 đến 2010, dù giá mua điện hiện nay từ các dự án NLTT chưa hấp dẫn các nhà đầu tư. Tính đến hết 2010, NLTT chiếm khoảng 3,5% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện. Tuy nhiên, theo đánh của các chuyên gia thì rất nhiều các nhà máy thuỷ điện nhỏ và cực nhỏ là không hoạt động, còn các nhà máy điện sinh khối hoạt động cầm chừng hoặc theo thời vụ. Không kể thủy điện nhỏ thì năm 2010 công suất lắp đặt của điện NLTT là khoảng 790MW, chủ yếu là từ sinh khối, gió và mặt trời. Tốc độ tăng trưởng trong ngành điện sinh khối làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nguồn.
Rào cản chính cho phát triển NLTT là chi phí sản xuất. Nhiều công nghệ mới của NLTT gồm gió, mặt trời và nhiên liệu sinh học đã và sẽ sớm có tính cạnh tranh kinh tế với các nhiên liệu hóa thạch và có thể đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng của Việt Nam. Các công nghệ có chi phí tương đối cạnh tranh là thủy điện, gió, sinh khối và địa nhiệt. Mặc dù pin mặt trời có chi phí cao nhưng chi phí này giảm đều đặn do tiến bộ trong công nghệ. Ngoài yếu tố giá thành sản xuất cao, một số rào cản khác đối với sự phát triển NLTT được kể đến như: thiếu các chính sách và tổ chức hỗ trợ cho phát triển NLTT; thiếu thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quy hoạch và hoạch định chính sách; công nghệ và dịch vụ phụ trợ cho NLTT chưa phát triển; khó tiếp cận nguồn vốn để phát triển các dự án NLTT.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 có xét đến năm 2030, với mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7,0%/năm trong giai đoạn 2016 – 2030, phần NLTT không còn có tỷ lệ thấp như Quy hoạch điện VII cũ mà đã tăng rất đáng kể. Theo đó, đẩy nhanh phát triển nguồn điện từ NLTT, từng bước gia tăng tỷ trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện. Cụ thể, ưu tiên phát triển các nguồn thủy điện, nhất là các dự án lợi ích tổng hợp (chống lũ, cấp nước, sản xuất điện); nghiên cứu đưa nhà máy thuỷ điện tích năng vào vận hành phù hợp với phát triển của hệ thống điện quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả vận hành của hệ thống điện. Tổng công suất các nguồn thủy điện (bao gồm cả thủy điện vừa và nhỏ, thủy điện tích năng) từ gần 17.000 MW hiện nay lên khoảng 21.600 MW vào năm 2020, khoảng 24.600 MW vào năm 2025 (thủy điện tích năng 1.200MW) và khoảng 27.800 MW vào năm 2030 (thủy điện tích năng 2.400MW). Điện năng sản xuất từ nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng khoảng 29,5% vào năm 2020, khoảng 20,5% vào năm 2025 và khoảng 15,5% vào năm 2030.
Quy hoạch điện hiệu chỉnh cũng đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức 140 MW hiện nay lên khoảng 800 MW vào năm 2020, khoảng 2.000 MW vào năm 2025 và khoảng 6.000 MW vào năm 2030. Cạnh đó, đẩy nhanh phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng mặt trời, bao gồm cả nguồn tập trung lắp đặt trên mặt đất và nguồn phân tán lắp đặt trên mái nhà: Đưa tổng công suất nguồn điện mặt trời từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 850 MW vào năm 2020, khoảng 4.000 MW vào năm 2025 và khoảng 12.000 MW vào năm 2030. Điện năng sản xuất từ nguồn điện mặt trời chiếm tỷ trọng khoảng 0,5% năm 2020, khoảng 1,6% vào năm 2025 và khoảng 3,3% vào năm 2030.
Kinh tế thế giới đang biến động với diễn biến khó lường tác động đến thị trường, nguồn cung nguyên, nhiên liệu, công nghệ, tài chính, vốn… của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Phát triển điện từ NLTT, giảm nhiệt điện đốt than cũng là giảm phát thải nhà kính và tăng an ninh năng lượng, biện pháp tốt nhất đối với hệ thống điện Việt Nam. Việc Nhà nước sớm xây dựng và ban hành luật NLTT là hết sức cần thiết, để từ đó đưa ra những chính sách cụ thể, xóa bỏ các rào cản cho NLTT phát triển.

HẢI VÂN

an ninh năng lượngHiệp hộimôi trườngnăng lượng điệnnăng lượng mặt trờinăng lượng tái tạonhiệt điệnthủy điệntrung tâm

Công nghệ sản xuất năng lượng sinh khối

  • 0
hangphuong
Thứ Năm, 31 Tháng Ba 2016 / Published in Tin tức phát triển công nghệ

Các công nghệ chung sản xuất năng lượng sinh khối

Sinh khối có thể được xử lý ở nhiều dạng chuyển đổi khác nhau để tạo ra năng lượng, nhiệt lượng, hơi và nhiên liệu. Hầu hết các quá trình chuyển đổi sinh khối có thể được chia ra làm hai loại như sau:

  • Chuyển đổi nhiệt hóa: bao gồm đốt nhiệt, khí hóa và nhiệt phân
  • Chuyển đổi sinh hóa: bao gồm phân hủy yếm khí (sản phẩm sinh khối và hỗn hợp methane và CO­2) và lên men (sản phẩm ethanol).

Một quá trình khác là chiết xuất, chủ yếu là quá trình cơ học, có nhiều cách chiết suất khác nhau, phụ thuộc vào sản phẩm của quá trình này là nhiệt, điện năng hoặc nhiên liệu.

Sơ đồ phân loại các dạng chuyển hóa sinh khối.nangluongivetnam.org

Sơ đồ phân loại các dạng chuyển hóa sinh khối.nangluongivetnam.org

Sản xuất điện từ năng lượng sinh khối

Cho đến ngày nay, có khá nhiều kỹ thuật chuyển sinh khối thành điện năng. Các công nghệ phổ biến nhất bao gồm: đốt trực tiếp hoặc tạo hơi nước thông thường, nhiệt phân đốt kết hợp co-firing, khí hóa, phân hủy yếm khí, sản xuất điện từ khí thải bãi chôn lấp rác.

Công nghệ đốt trực tiếp và lò hơi

Đây là 2 phương pháp tạo điện từ sinh khối rất phổ biến và được vận dụng ở hầu hết các nhà máy điện năng lượng sinh khối. Cả 2 dạng hệ thống này đều đốt trực tiếp các nguồn nguyên liệu sinh học để tạo hơi nước dùng quay turbin máy phát điện. Hai phương pháp này được phân biệt ở cấu trúc bên trong buồng đốt hoặc lò nung. Tại hệ thống đốt trực tiếp, sinh khối được chuyển vào từ đáy buồng đốt và không khí được cung cấp tại đáy bệ lò. Trong khi đó, ở phương pháp lò hơi thông thường, được chuyển vào lò từ phía bên trên nhưng sinh khối vẫn được tải xuống phía dưới đáy lò. Các hệ thống đốt trực tiếp truyền thống là hệ thống pile (sử dụng lò đốt 2 cấp – two-chamber combustion chamber) hoặc lò hơi stoker. Khí nóng sau đó được chuyển qua turbine và quay cánh turbine, vận hành rotor máy phát điện.
Khi được sử dụng để đốt trực tiếp, sinh khối phải được hun khô, cắt thành mảnh vụn, và ép thành bánh than
Một khi quá trình chuẩn bị được hoàn tất, sinh khối được đưa vào lò nung để tạo nhiệt. Nhiệt tạo ra từ quá trình đun, ngoài việc cung cấp cho turbin máy phát điện, còn có thể được sử dụng để điều nhiệt nhà máy và các công trình xây dựng khác, tức là để khai thác tối đa hiệu suất. Nhà máy dạng này còn được gọi là nhà máy liên hợp nhiệt-năng lượng (Combined Heat Power – CHP), tức là tận dụng lẫn nhiệt và hơi nước để khai thác tối đa tiềm năng năng lượng được tạo ra, tránh lãng phí năng lượng.

Phương pháp đốt liên kết

Đốt liên kết, kết hợp sinh khối với than để tạo năng lượng, có lẽ là phương pháp sử dụng tích hợp tốt nhất sinh khối vào hệ thống năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa thạch.
Trong quá trình đốt liên kết, sinh khối bắt nguồn từ gỗ và cây cỏ như gỗ dương (poplar), liễu, cỏ mềm có thể được trộn một phần vào nguyên liệu cho nhà máy than thông thường. Quá trình này, sinh khối có thể chiếm tỷ lệ 1%-15% tổng năng lượng của nhà máy than. Trong các nhà máy dạng này, sinh khối cũng được đốt trực tiếp trong lò nung, tương tự như than. Phương pháp đốt liên kết có một lợi thế kinh tế tương đối rõ ràng, do kinh phí đầu tư chủ yếu chỉ là để trang bị một lò đốt liên kết mới hoặc nâng cấp lò đốt hiện tại trong nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, tức là có chi phí thấp hơn nhiều so với xây dựng một nhà máy điện sinh khối.

Sơ đồ mô tả quá trình đốt liên kết.nangluongvietnam.org

Sơ đồ mô tả quá trình đốt liên kết.nangluongvietnam.org

Nhiệt phân

Nhiệt phân là quá trình đốt sinh khối ở nhiệt độ rất cao và sinh khối phân rã trong môi trường thiếu khí oxy. Vấn đề trở ngại ở đây là rất khó tạo ra một môi trường hoàn toàn không có oxy. Thông thường, một lượng nhỏ oxy hóa vẫn diễn ra và có thể tạo ra một số sản phẩm phụ không mong muốn. Ngoài ra, công nghệ này đòi hỏi một nguồn thu nhiệt lượng cao và do đó vẫn còn rất tốn kém. Quá trình đốt sinh khối tạo ra dầu nhiệt

môi trườngnăng lượngnăng lượng sinh khốinhiệt điện

Nhiệt điện than vẫn giữ mức đáng kể trong cơ cấu nguồn

  • 0
hangphuong
Thứ Bảy, 26 Tháng Ba 2016 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Quy hoạch điện VII sau khi được hiệu chỉnh đã giảm tỷ trọng nhiệt điện than và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu phát triển nguồn điện, một điểm mới so với phương án cơ sở của Quy hoạch điện VII, vào năm 2030 nhiệt điện than sẽ chiếm 56% trong công suất dự báo và 62% trong tổng điện lượng dự báo.

Những bàn thảo, khuyến nghị cho quy hoạch và phát triển năng lượng tái tạo và nhiệt điện than theo hướng bền vững hơn trong mối liên hệ với Chiến lược Tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu của Việt Nam đã được đưa ra trong Hội thảo “Phát triển năng lượng- Tăng trưởng Xanh- Biến đổi khí hậu: Nỗ lực và Khoảng trống”, do Trung tâm Phát triển Sáng kiến Cộng đồng và Môi trường (C&E) tổ chức ngày 24/3 tại Hà Nội.
Bộ Tài nguyên và Môi trường ước tính, phát thải khí nhà kính của chỉ riêng việc đốt nhiên liệu trong ngành sản xuất năng lượng (nhiệt điện) của Việt Nam chiếm tới 31,1% tổng phát thải khí nhà kính năm 2020 và lên đến 51% tổng phát thải khí nhà kính năm 2030.
Tại Hội nghị Cop 21, Thủ tướng Việt Nam đã cam kết “giảm phát thải so với kịch bản cơ sở 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế”.
Quy hoạch điện VII được hiệu chỉnh, năng lượng tái tạo đang đứng trước cơ hội phát triển trong bối cảnh Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo đến 2030, tầm nhìn đến 2050 đã ban hành, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước rất quan tâm, tìm kiếm cơ hội đầu tư.

Xét về cơ cấu nguồn điện hay giá thành, ông Nguyễn Anh Tuấn – Phó Viện trưởng Viện Năng lượng – Bộ Công Thương khẳng định: “Dù không mong muốn, nhưng tỷ trọng nhiệt điện than vẫn tiếp tục giữ ở mức đáng kể trong cơ cấu nguồn điện”.

Ngành năng lượng đang chịu nhiều áp lực như: Duy trì tăng trưởng GDP ở mức cao, khoảng 7%/năm; chính sách thu hút đầu tư chưa đủ hấp dẫn; các quyết định chính sách chưa sát thực tế; khởi nghiệp rất hạn chế; không có công nghệ cốt lõi… trong khi đó, áp lực thực hiện Chiến lược Tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, đầu tư cho tăng trưởng xanh đòi hỏi nguồn tài chính lớn…
Tuy nhiên, phát triển năng lượng tái tạo cũng đứng trước những thách thức về cơ chế, biểu giá điện chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư, chưa có quy hoạch phát triển…
Trong ngắn hạn, ông Nguyễn Anh Tuấn khuyến cáo việc áp dụng tối đa các giải pháp công nghệ tiên tiến, hiệu quả, giảm nhẹ tác động tới môi trường – xã hội. Cạnh đó, Nhà nước cần sớm ban hành các cơ chế thích hợp, đủ mạnh để thực sự khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.
Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh thúc đẩy quá trình tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thông qua tăng cường đầu tư vào đổi mới công nghệ, vốn tự nhiên, công cụ kinh tế.
Ông Lê Đức Chung – Chuyên gia dự án CIGG, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho rằng, nếu không có hành động đủ mạnh, lượng phát thải CO2 liên quan đến năng lượng sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050.

“Các nguồn năng lượng mới cần phải được triển khai trên quy mô tương đương với cách mạng công nghiệp”, ông Chung nói.

Theo vị đại diện đến từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà nước cần xây dựng Quy hoạch tổng thể về năng lượng tái tạo, đồng thời đưa ra các cơ chế chính sách cụ thể nhằm thu hút nguồn lực đầu tư phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo, để từ đó giảm dần tỷ lệ nhiệt điện than.

Tác giả : Hải Vân

điện lưới quốc gianhiệt điện

Biến đổi khí hậu và xu thế phát triển nhiệt điện than trên Thế Giới

  • 0
hangphuong
Thứ Hai, 22 Tháng Hai 2016 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Từ nhiều năm gần đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhân loại. Cộng đồng quốc tế đã có nhiều hoạt động cổ vũ và yêu cầu các nước tìm cách giảm thiểu và thích ứng với BĐKH, với mục đích là bảo vệ hành tinh và nhân loại phát triển bền vững. Một yếu tố quan trọng gây nên hiện tượng nóng lên của trái đất, làm BĐKH là phát thải khí nhà kính, (KNK) mà chủ yếu là CO2, từ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người. Trong đó phát thải CO2 chủ yếu phát sinh từ hoạt động đốt nhiên liệu, mà than chiếm tỷ trọng cao nhất.

PGS, TS. BÙI HUY PHÙNG – Chủ tịch Hội đồng Khoa học VEA

Hiện nay than tiêu thụ đang chiếm trên 30% tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp, sản xuất 39% sản lượng điện toàn cầu, phát thải KNK từ than chiếm tới gần 40% tổng phát thải toàn cầu. Trong bối cảnh này nhiều nước đã và đang tìm cách giảm tiêu thụ than, tìm các nguồn sạch hơn thay thế là rất cần thiết. Tuy nhiên có nhiều tổ chức, chuyên gia, chủ yếu là quốc tế đưa những nhận định, quan điểm quá khích: Than là nhơ nhuốc, là nguồn năng lượng bẩn, than là nguồn gốc gây chết người…. Thiết nghĩ chúng ta nên tiến hành nghiên cứu nghiêm túc, đánh giá khách quan để tìm cách sử dụng hợp lý nguồn vàng đen quý giá này.

Sản xuất, tiêu thụ than thế giới

Than là một loại nhiên liệu có lịch sử phát triển khá lâu đời. Có thể nói thế kỷ 19 là thế kỷ của than đá, thường được gọi là “vàng đen”. Sự phát triển của than đá không thể tách rời cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ 19 và những đổi thay công nghệ mà cuộc cách mạng này mang lại.

Các chủng loại than

Thành phần cấu tạo của than gồm có: cacbon, hydro, oxy và nitơ. Tùy theo thành phần cấu tạo, tỷ trọng than được phân thành các loại chính:
– Than bùn: hàm lượng carbon thấp 35-40%, nhưng hàm lượng nước cao 40-45%. Nhiên liệu này cung cấp ít nhiệt và tạo ra nhiều xỉ. Nhiệt trị thấp khoảng 3.000-3.500 kcal/kg.
– Than nâu: hàm lượng cacbon cao hơn so với than bùn 55-65%, nhiệt trị còn tương đối thấp khoảng 4.000-6.000 kcal/kg.
– Than mỡ: hàm lượng cacbon cao hơn so với than nâu 70-80%, nhiệt trị khá cao khoảng 6.000-8.000 kcal/kg.
– Than đá: hàm lượng cacbon rất cao 60-80%, nhiệt trị khoảng 6.000-8.500 kcal/kg.
– Ngoài ra có thể kể tới than củi hay còn gọi than hoa, được sản xuất từ củi gỗ, nhiệt trị khá cao khoảng 7.000kcal/kg.

Trữ lượng than

Trữ lượng than trên toàn thế giới cao hơn gấp nhiều lần trữ lượng dầu mỏ và khí đốt. Người ta ước tính có trên 10 nghìn tỷ tấn, trong đó trữ lượng có thể khai thác xấp xỉ 1.000 tỷ tấn mà 3/4 là than đá. Than phân bổ khá đều ở các vùng, nhưng tập trung chủ yếu ở Bắc bán cầu, trong đó đến 4/5 thuộc về Trung Quốc (tập trung ở phía Bắc và Đông Bắc), Hoa Kỳ (các bang miền Tây), LB Nga (vùng Ekibat và Xibêri), Ucraina (vùng Đôn-bat), CHLB Đức, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Ba Lan…
Hiện tại – năm 2014, sản xuất than trên toàn thế giới đạt gần 4 tỷ TOE, tập trung chủ yếu ở Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga, Úc. Nếu tính với mức trữ lượng đã biết và sản xuất, tiêu thụ than hiện nay, nguồn than có thể sử dụng trong vòng 250 năm. Than tiêu thụ toàn cầu theo các châu lục giai đoạn 2008-2012
So sánh lượng than sản xuất và tiêu thụ ở từng nước, từng khu vực chúng ta thấy rõ than chủ yếu được tiêu thụ tại nơi sản xuất, hay nói cách khác tính thương mại quốc tế của than yếu hơn nhiều so với dầu và các sản phẩm của dầu. Loại than tiêu thụ chủ yếu là than nâu.

Thị trường và giá than

Thị trường than quốc tế mới chỉ chiếm trên 10-15% sản lượng than khai thác. Việc buôn bán than gần đây phát triển nhờ thuận lợi về giao thông đường biển, song sản lượng than xuất khẩu không tăng nhanh, chỉ dao động ở mức 550 đến 600 triệu tấn/năm. Từ nhiều năm nay, Ôxtrâylia luôn là nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới, chiếm trên 35% (khoảng 200 triệu tấn) lượng than xuất khẩu. Tiếp sau là các nước Trung Quốc, Nam Phi, Hoa Kỳ, Inđônêxia, Côlômbia, Canada, Nga, Ba Lan… Các nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Pháp, Italia, Anh… có nhu cầu rất lớn về than và cũng là các nước nhập khẩu than chủ yếu.
Nhìn chung giá than trên thị trường thế giới giai đoạn trước năm 2000 khá ổn định ở mức 30-50USD/tấn, giai đoạn 2005-2010 giá than tăng ở mức 80-100USD/tấn, có nơi tới 150USD/tấn, sau năm 2010 đến nay do yêu cầu giảm thiểu KNK và tác động của giá dầu giảm, giá than có xu thế giảm hiện nay ở mức 70-100USD/tấn.
Nếu chúng ta không xét giai đoạn 2011-2013 có giá dầu quá cao và giá dầu thấp của 2015, có thể thấy giá dầu những năm qua ở mức 70-80USD/thùng, tương đương 500-600USD/tấn; với giá than nhập tại Nhật Bản vào mức cao (bảng 3), dễ dàng thấy giá than tính theo trọng lượng thường chỉ bằng 15-20% giá dầu, tính theo nhiệt lượng chỉ khoảng 30-35% giá dầu, chính vì vậy, mặc dầu than khó sử dụng hơn dầu, gây phát thải KNK nhiều hơn dầu và các nhiên liệu khác, nhưng nó vẫn được sử dụng nhiều ở hầu khắp các nước. Lý do giá rẻ đóng vai trò chính khi lựa chọn sử dụng.

Phát thải khí nhà kính từ tiêu thụ than

Kết quả kiểm kê KNK toàn cầu [ 1,2 ] cho thấy, tổng lượng phát thải CO2 đang ngày càng tăng lên, năm 2013 là trên 35 tỷ tấn CO2, tính theo đầu người là 5 tấn/ng; trong đó, Trung Quốc có phát thải lớn nhất trên 10 tỷ tấn, thứ hai là Hoa Kỳ 5,3 tỷ, Ấn Độ trên 2 tỷ, Nga 1,8 tỷ, Nhật 1,36 tỷ tấn, chi tiết hơn ở các châu lục và một số nước được giới thiệu trong bảng 5.
Chúng ta có thể phân tích chi tiết hơn, trong tổng phát thải KNK thì, phát thải từ sử dung than chiếm khối lượng rất lớn, năm 2008, 2010, 2012, tương ứng là 12,3; 13,3; 13,7 tỷ tấn CO2, về tỷ trọng chiếm khoảng 40%, chi tiết cho các châu lục và một số quốc gia.

Vai trò của than trong cân bằng năng lượng chung và sản xuất điện

Than là loại nhiên liệu được sử dụng rất sớm để cung cấp nhiệt năng và điện năng cho sản xuất và đời sống của nhân loại. Trong gần hai thế kỷ qua, than đóng vai trò chủ đạo, từ đầu thế kỷ 20, dầu, khí rồi năng lượng hạt nhân, gần đây năng lượng tái tạo, thay thế dần một phần than. Do than có trữ lượng lớn, giá rẻ nên cho tới nay than vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong cân bằng năng lượng toàn cầu, năm 2014, tiêu thụ than gần 3881 triệu TOE (khoảng 7.000 tr. tấn), chiếm tỷ trọng 30% trong tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp.
Trung Quốc nay là quốc gia tiêu thụ nhiều than nhất thế giới với 1962 triệu TOE, thứ hai là Hoa Kỳ 453 triệu TOE, thứ ba là Ấn Độ 360 tr.TOE, thứ tư Nhật 126 tr.TOE; chi tiết theo châu lục và một số nước.
Riêng đối với sản xuất điện, những thập niên cuối thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, nhiệt điện than chiếm trên 60% sản xuất điện toàn cầu, khoảng mười năm trở lại đây tỷ trọng nhiệt điện than giảm nhiều, tuy vậy vẫn còn chiếm tỷ trọng 40%. Các nước có tỷ trọng nhiệt điện than cao hiện nay là Trung Quốc khoảng 65%%, Hoa Kỳ 39%, kế tiếp là Nhật, Nga. Sản xuất điện toàn cầu (tổng số và tỷ trọng) theo loại nguồn năng lượng.

Xu thế phát triển năng lượng hiện nay [1,2,3]

Nhu cầu năng lượng của thế giới được dự báo sẽ tăng gấp rưỡi trong giai đoạn 2010-2040, trong khi các nguồn năng lượng hoá thạch, nguồn thuỷ năng ngày càng trở nên khan hiếm, đắt đỏ, đặc biệt là dầu mỏ, nguy cơ cạn kiệt đến gần. Mặt khác BĐKH ngày càng hiện hữu đe dọa hành tinh và nhân loại. Trước bối cảnh đó, các nhà khoa học, các quốc gia đều phải tìm cách để đảm bảo nguồn năng lượng sạch cho phát triển bền vững. Xu thế phải được đi theo hai hướng cung và cầu.

Hướng cung

– Đa dạng hoá nguồn năng lượng mà chủ yếu là phát triển sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như: năng lượng mặt trời, gió, biomas và các sản phẩm đuợc chế biến từ nó (ethanol, biodisel…); biogas; địa nhiệt, năng lượng biển… đây là các nguồn năng lượng sạch, tái sinh, tiềm năng lớn. Phát triển sử dụng NLTT để thay thế một phần năng lượng hoá thạch, tuy nhiên hiện tại và tương lai gần giá còn cao.
– Thăm dò tìm kiếm bổ sung nguồn năng lượng từ than, dầu, khí, uran, hydrat…
– Hoàn thiện và tìm các phương pháp mới để sản xuất năng lượng, có thể kể tới là: thay thế các chu trình sản xuất điện truyền thống; phát triển công nghệ than sạch; Sản xuất điện năng bằng máy phát từ thủy động; Sản xuất năng lượng bằng công nghệ pin nhiên liệu; Sản xuất năng lượng bằng công nghệ nanô, hydro; Công nghệ cung cấp năng lượng sinh học; Khống chế phản ứng nhiệt hạch để sản xuất năng lượng. Những công nghệ này đang đòi hỏi đầu tư lớn cho nghiên cứu, hoàn thiện.

Hướng cầu

– Sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, là xu thế được xem là quốc sách ở hầu hết các quốc gia hiện nay. Năng lượng tiết kiệm được là nguồn năng lượng sạch, giá rẻ.
– Nhu cầu năng lượng không thể tăng mãi, trong tương lai chỉ tiêu thống kê năng lượng quốc gia, đầu người càng ít đi mà xã hội vẫn phát triển mới là niềm tự hào. Xu thế đang hướng tới những đột phá, đổi mới nguyên tắc sử dụng năng lượng ít nhất cho cả sản xuất và đời sống.

Xu thế phát triển nhiệt điện than

Gần đây xuất hiện một số quan điểm, kết quả nghiên cứu[4], cho rằng nhiên liệu than là bẩn thỉu, gây ô nhiểm chết người hàng loạt. Chúng tôi nghĩ rằng, bản thân hòn than là sạch, không gây chết người, bởi con người chưa có phương thức sử dụng tốt nên gây ô nhiểm. Việc nghiên cứu những mặt trái của việc đốt than nói chung và nhiệt điện than nói riêng trong bối cảnh BĐKH là rất cần thiết; tuy nhiên những kết quả mới là bước đầu, chưa toàn diện, một số kết luận, nhiều chuyên gia cho là quá khích. Các nền kinh tế khổng lồ cũng đang sử dụng nhiệt điện than trên 35-40% tổng sản xuất điện. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng một cách tổng hợp từ tiềm năng, tính kinh tế, điều kiện từng vùng, quốc gia, công nghệ sử dụng, tác động với BĐKH, để từ đó có hướng sử dụng hợp lý, hiệu quả đối với nguồn than.
Từ các tư liệu dẫn và phân tích trên cho thấy cơ cấu các nguồn sản xuất điện mười năm trở lại đây cơ bản ổn định, chỉ năng lượng hạt nhân do ảnh hưởng sự cố Fukushima tỷ trọng có giảm, NLTT được các quốc gia quan tâm phát triển nên tăng đều qua các năm. Năm 2014 toàn thế giới sản xuất điện khoảng 22,4 ngàn tỷ kWh, các nhà máy nhiệt điện than truyền thống vẫn đóng vai trò chủ đạo chiếm gần 39% tổng sản lượng các nhà máy điện trên toàn thế giới, tiếp theo là khí 22%, thủy năng 16,8%, năng lượng hạt nhân 10,7%, dầu 4,8% và các nguồn NLTT khác 6,7%.
Dự báo trong những năm tới nguồn thủy năng đã cạn, giá đắt, khó tăng lên; nguồn hạt nhân sẽ tăng trở lại nhờ công nghệ an toàn hơn, kỳ vọng điện sản xuất từ điện hạt nhân sẽ tăng gấp đôi hiện nay vào năm 2040, dự kiến đạt khoảng 5.400 tỷ kWh.
Với sức ép của BĐKH, tỷ trọng sử dụng than sẽ giảm, nhưng vài chục năm tới than được xem là nguồn tiếp sức cho các nền kinh tế đang phát triển nên vẫn chiếm tỷ trọng 25-30% trong sản xuất điện toàn cầu; NLTT sẽ phát triển nhanh hơn góp phần thay thế than, dầu, nhiều chuyên gia dự báo NLTT có thể đạt tỷ trọng 10-12% vào năm 2020 và 20% vào năm 2030 trong cân bằng điện toàn cầu.
Nhiệt điện than, nhờ trữ lượng than dồi dào, hầu hết được cung cấp tại chỗ, giá rẻ, nên tuy có giảm, nhưng vẫn còn giữ vị trí quan trọng đối với sản xuất điện, nhất là các nước đang phát triển, vốn đầu tư còn hạn hẹp khó có thể phát triển nhanh các nguồn sạch hơn; đồng thời việc nghiên cứu công nghệ than sạch để giảm thiểu ảnh hưởng môi trường sẽ được xúc tiến mạnh mẽ hơn, góp phần sử dụng hợp lý, lâu dài nguồn tài nguyên quý giá này.

Tác giả : NangluongVietnam Online

nhiệt điện

Việt Nam sẽ không phát triển thêm nhiệt điện chạy than

  • 0
hangphuong
Thứ Hai, 25 Tháng Một 2016 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Trong một tuyên bố đưa ra vào ngày 19/1 vừa qua, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: Cần rà soát, tính toán kế hoạch phát triển tất cả các nhà máy điện than, không phát triển thêm điện than.

Nội dung trên do Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) khẳng định trong thông cáo ngày 22/1.
Theo GreenID, Thủ tướng Chính phủ cũng khẳng định Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong cắt giảm khí phát thải và đẩy mạnh đầu tư phát triển năng lượng tái tạo.
GreenID đồng thời đưa ra bình luận: “Tuyên bố này phát đi tín hiệu mạnh mẽ về việc giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiệt điện than từ phía chính phủ Việt Nam”.
Việt Nam đã được biết đến là một trong những nước dẫn đầu thế giới về số lượng các nhà máy nhiệt điện than được quy hoạch xây mới với công suất dự kiến khoảng 60,000 MW, chỉ đứng sau Ấn Độ và Trung Quốc.
Bà Ngụy Thị Khanh – Giám đốc GreenID cho biết: “Chúng tôi hoan nghênh cam kết của Thủ tướng Chính phủ về quyết định đưa đất nước khỏi sự phụ thuộc vào nhiệt điện than”.
Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng trong Quy hoạch điện VII (hiệu chỉnh) sẽ được công bố trong những ngày tới vẫn còn một số lượng đáng kể các nhà máy nhiệt điện than mới sẽ được xây dựng.
“Nếu Thủ tướng đã thận trọng xem xét và đưa ra quyết định giảm nhiệt điện than, chúng tôi hy vọng rằng chính phủ sẽ đánh giá lại một cách toàn diện tất cả các nhà máy điện than đã đề xuất và ban hành các chính sách để nhanh chóng đẩy mạnh sự phát triển của năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả.
Song hành với những những nỗ lực này, tất cả các nhà máy điện than hiện có và đang có kế hoạch xây mới cần phải được áp dụng hệ thống kiểm soát ô nhiễm và công nghệ hiệu suất cao phù hợp với tiêu chuẩn và thực tiễn tốt của quốc tế”, bà Khanh nói.
GreenID cũng cho rằng, việc Việt Nam giảm bớt nhiệt điện than sẽ là một “cú bồi” đối với ngành công nghiệp than toàn cầu vốn đang vật lộn để tồn tại.
Chính minh quan điểm của mình, GreenID cũng dẫn lại phân tích của ông Tim Buckley, Giám đốc Nghiên cứu Năng lượng Tài chính (thuộc Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính – Úc) về sự lao dốc của ngành than toàn cầu.
Số liệu công bố mới đây cho thấy rằng nguồn nhiệt điện than của Trung Quốc đã giảm khoảng 4%/năm, dựa trên con số báo cáo suy giảm năm 2014. Nhập khẩu than của Ấn Độ giảm 15% trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12/2015.
Quyết định của chính phủ Việt Nam nhằm đẩy mạnh chuyển đổi thị trường điện phù hợp với các chiến lược hiện đang được thực hiện bởi Trung Quốc và Ấn Độ.
An ninh năng lượng là một trong những nhu cầu cấp bách nhất của bất kỳ quốc gia nào và thúc đẩy phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời và sử dụng năng lượng hiệu quả chính là cách đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia từ nguồn tại chỗ.
Thị trường nhiệt điện than ngày càng suy giảm do các xu hướng thay đổi ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Theo ông Buckley, việc một trong những quốc gia dẫn đầu các nước Đông Nam Á về phát triển nhiệt điện than đưa ra quyết định sẽ không tiếp tục phụ thuộc vào nguồn than nhập khẩu càng làm nổi rõ hơn sự thoái trào của ngành công nghiệp than toàn cầu.
Chính phủ dự kiến sẽ ban hành Quy hoạch điện VII (hiệu chỉnh) trong những ngày tới.
Trong bản quy hoạch mới này, dự báo nhu cầu được kỳ vọng sẽ thấp hơn so với phiên bản trước, bám sát thực tế phát triển kinh tế, qua đó giảm tỷ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu năng lượng trong tương lai.
Ngoài ra, QHĐ VII (hiệu chỉnh) được dự kiến sẽ tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng.

Tác giả : HẢI VÂN

nhiệt điện

Lễ ký thoả thuận đầu tư Dự án BOT nhà máy nhiệt điện Nam Định 1

  • 0
hangphuong
Thứ Hai, 18 Tháng Một 2016 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Chứng kiến Lễ ký có Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc tại Việt Nam, Bí thư tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định, Lãnh đạo các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu khí Việt Nam, Than – Khoáng sản Việt Nam cùng đại diện các đơn vị liên quan của Bộ Công Thương và đại diện các Nhà đầu tư.

Việc ký kết Thỏa thuận đầu tư đánh dấu mốc rất quan trọng kết thúc quá trình đàm phán hơn 3 năm qua giữa Phía Việt Nam và Chủ đầu tư để Chủ đầu tư chuyển sang giai đoạn xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Dự án.

Dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Nam Định 1 có tổng công suất là 1.200MW gồm 2 tổ máy 600MW đã được Chính phủ Việt Nam đồng ý giao cho Tổ hợp gồm Công ty Taekwang Power Holdings Co., Ltd. và Công ty quốc tế về dự án Điện và Nước (ACWA Power) làm chủ đầu tư phát triển theo hình thức BOT. Dự án có tổng mức đầu tư rất lớn (khoảng 2,2 tỷ USD), được xây dựng tại Trung tâm Điện lực Nam Định – tỉnh Nam Định và là dự án BOT nhiệt điện thứ 4 tại Việt Nam sử dụng than nội địa do Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam cung cấp. Dự án này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế khu vực phía Bắc, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Tại buổi Lễ, Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng Đặng Huy Cường đã cho biết: “Tổng cục Năng lượng với trách nhiệm được Bộ Công Thương giao, cam kết sẽ tiếp tục hướng dẫn, tạo điều kiện và phối hợp chặt chẽ với Chủ đầu tư trong quá trình xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư và thu xếp tài chính cho Dự án”.

Tác giả: Nguyễn Trường Giang, Vụ BOT – Tổng cục Năng lượng

nhiệt điện

Lễ ký bộ Hợp đồng BOT của Dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2

  • 0
hangphuong
Thứ Tư, 30 Tháng Mười Hai 2015 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Ngày 29 tháng 12 năm 2015, Tổng cục Năng lượng đã tổ chức lễ ký bộ Hợp đồng BOT của Dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2 gồm: Hợp đồng BOT, Hợp đồng Mua bán điện, Hợp đồng thuê đất giữa phía Việt Nam và Chủ đầu tư Dự án, với sự chủ trì và chứng kiến của Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng

Sau khi bộ Hợp đồng BOT được ký, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng đã trao Văn bản Bảo lãnh Chính phủ cho Chủ đầu tư Công ty Janakuassa – Malaysia.

Dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2 có công suất 1.200 MW gồm 2 tổ máy 600 MW.  Ngày 12 tháng 10 năm 2009, Chính phủ Việt Nam đã đồng ý giao Công ty Janakuassa làm Chủ đầu tư để đầu tư và phát triển dự án. Dự án được xây dựng tại Trung tâm Điện lực Duyên Hải – tỉnh Trà Vinh và là dự án nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu.

Ngày 09 tháng 9 năm 2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Công ty Janakasa, chủ đầu tư dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2.

Ngày 29 tháng 12 năm 2015, Tổng cục Năng lượng đã tổ chức lễ ký bộ Hợp đồng BOT của Dự án BOT Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2 gồm: Hợp đồng BOT, Hợp đồng Mua bán điện, Hợp đồng thuê đất giữa phía Việt Nam và Chủ đầu tư Dự án, với sự chủ trì và chứng kiến của Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng

Dự án BOT Duyên Hải 2 khi đi vào vận hành với sản lượng điện khoảng 8 tỷ kwh/năm sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Mê Kông những năm sau 2020, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Tác giả: Vụ BOT – Tổng cục Năng lượng

nhiệt điện

Công bố khánh thành Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương II

  • 0
hangphuong
Thứ Hai, 26 Tháng Mười 2015 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Ngày 26/10/2015, Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương II chính thức được công bố khánh thành tại Hà Nội. Đây là nhà máy nhiệt điện hình thức Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (BOT) đầu tiên và lớn nhất tại Việt Nam sử dụng công nghệ lò hơi đốt than phun

Tham dự buổi lễ có ông Cao Quốc Hưng – Thứ trưởng Bộ Công Thương; Ông Ted Osius – Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam; Ông Dea Joo Jun – Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam; ông Nguyễn Đức Long – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh; Lãnh đạo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV).

Dự án Nhà máy Nhiệt điện BOT Mông Dương 2 có tổng công suất 1.240 MW gồm 2 tổ máy được xây dựng trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh với tổng vốn đầu tư của dự án khoảng 2.1 tỷ USD do các công ty con của Tập đoàn AES (Mỹ), Posco Energy (Hàn Quốc) và Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc CIC (Trung Quốc) đầu tư, Công ty AES-TKV Mông Dương trực tiếp quản lý, xây dựng và vận hành.

Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương II bắt đầu vận hành thương mại từ tháng 4 năm 2015, vượt tiến độ khoảng 6 tháng. Tính đến nay cả hai tổ máy của Mông Dương II đã đóng góp hơn 4 triệu kWh điện vào mạng lưới điện quốc gia. Dự kiến, nhà máy sẽ đóng góp hơn 7,6 tỷ kWh điện vào mạng lưới điện quốc gia mỗi năm.

Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Cao Quốc Hưng đánh giá cao những nỗ lực của chủ đầu tư, các nhà thầu, cũng như các đơn vị liên quan trong toàn bộ quá trình thiết kế, thẩm định, thi công công trình một cách an toàn, đảm bảo chất lượng và tiến độ. Thứ trưởng cũng yêu cầu Công ty BOT AES-TKV Mông Dương tiếp tục bám sát kế hoạch sản xuất, phối hợp với các bên liên quan nhằm quản lý vận hành nhà máy an toàn, hiệu quả đảm bảo cung cấp điện ổn định cho hệ thống điện quốc gia, phục vụ quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.

nhiệt điện

Triển khai kiểm tra công tác chạy thử nghiệm Tổ máy 2, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn 1

  • 0
hangphuong
Thứ Sáu, 04 Tháng Chín 2015 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Ngày 04 tháng 9 năm 2015 tại Cần Thơ, thừa uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Công Thương, đoàn công tác của Bộ Công Thương do Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng chủ trì và các đồng chí Lãnh đạo của Tổng cục Năng lượng, Cục Điều tiết điện lực, Cục Công tác phía Nam đến làm việc với các đồng chí Lãnh đạo Tổng công ty Phát điện 2 (Genco 2) và kiểm tra công tác chạy thử nghiệm thử Tổ máy 2, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn 1, huyện Ô Môn, Thành phố Cần Thơ
Thừa uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Công Thương, đoàn công tác của Bộ Công Thương do Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng chủ trì và các đồng chí Lãnh đạo của Tổng cục Năng lượng, Cục Điều tiết điện lực, Cục Công tác phía Nam đến làm việc với các đồng chí Lãnh đạo Tổng công ty Phát điện 2 (Genco 2) và kiểm tra công tác chạy thử nghiệm thử Tổ máy 2, Nhầ máy Nhiệt điện Ô Môn 1, huyện Ô Môn, Thành phố Cần Thơ.
Tác giả: Tổng cục Năng lượng

nhiệt điện

Chỉ khởi công nhiệt điện đốt than khi có phương án xử lý tro xỉ

  • 0
hangphuong
Thứ Hai, 17 Tháng Tám 2015 / Published in Tin hoạt động ngành năng lượng, Tin tức

Các nhà máy nhiệt điện đốt than đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư, chỉ được phép khởi công xây dựng khi có phương án rõ ràng về xử lý tro xỉ, hoặc có hợp đồng nguyên tắc với các đơn vị có nhu cầu.

Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về các giải pháp xử lý, sử dụng tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện.
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ: Xây dựng, Thông tin và Truyền thông và các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các lợi ích của việc sử dụng tro xỉ trong các nhà máy nhiệt điện; phổ biến các mô hình, cách làm hay trong xử lý tro xỉ mà một số nhà máy nhiệt điện, một số địa phương và một số doanh nghiệp đã thực hiện.
Bộ Công Thương chỉ đạo từng nhà máy nhiệt điện than hiện có và các dự án đang xây dựng phối hợp với UBND các tỉnh, các doanh nghiệp,… xây dựng phương án xử lý, sử dụng tro xỉ tại các nhà máy điện để san lấp, làm đường giao thông nông thôn, vật liệu xây dựng,… phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Trong đó tập trung chỉ đạo các dự án nhà máy nhiệt điện đang có yêu cầu cấp thiết về vấn đề này, bao gồm: Vĩnh Tân 2, An Khánh 1, Vũng Áng 1, Sông Hậu 1 và Long Phú 1.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan, trên cơ sở các cơ chế, chính sách ưu đãi trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đối với các dự án bảo vệ môi trường; các cơ chế, chính sách quy định tại Quyết định số 1696/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn các doanh nghiệp phát thải, xử lý và các doanh nghiệp sử dụng tro xỉ về các cơ chế, chính sách được ưu đãi, hỗ trợ khi thực hiện các dự án xử lý, sử dụng tro xỉ tại các Nhà máy nhiệt điện.
Đồng thời chỉ đạo nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới về các công nghệ xử lý, sử dụng tro xỉ trong các lĩnh vực, đề xuất công nghệ ưu tiên áp dụng tại Việt Nam.

Hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng

Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương hướng dẫn các cơ chế, chính sách được ưu đãi, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp có sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng.
Bộ Xây dựng xem xét, xây dựng để ban hành hoặc công bố áp dụng đầy đủ các Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật đối với tro xỉ sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau: Vật liệu gia cố nền đất, san lấp, đắp đất, làm đê, kè; làm vật liệu trong xây dựng công nghiệp (công trình cầu cảng, công trình thủy lợi,…), công trình dân dụng (xây trát, chống thấm,…); sản xuất vật liệu xây dựng (gạch không nung, bê tông bọt, gạch bê tông khí chưng áp, gạch ốp lát,…).
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức nghiên cứu, đánh giá các ảnh hưởng, tác động đến môi trường trong quá trình xử lý, sử dụng tro xỉ; đề xuất các giải pháp cần thực hiện để các hoạt động xử lý, sử dụng tro xỉ đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các quy định hiện hành.
Đồng thời tổ chức thường xuyên việc kiểm tra, giám sát đối với các nhà máy điện có phát thải tro xỉ để đảm bảo các nhà máy thực hiện đúng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo đúng báo cáo đánh giá tác động môi trường được duyệt.
Phó Thủ tướng yêu cầu các tập đoàn EVN, TKV, PVN khẩn trương phối hợp với các địa phương, doanh nghiệp liên quan xây dựng phương án xử lý, sử dụng tro xỉ trong các nhà máy nhiệt điện trong tập đoàn, gửi Bộ Công Thương tổng hợp.

Tác giả : NangluongVietnam.vn

nhiệt điện
  • 1
  • 2

Tìm kiếm

Bài viết mới

  • Làm thế nào các nước trong G20 phát triển các chính sách tốt hơn để quản lý quá trình chuyển đổi năng lượng

    Hội đồng Năng lượng Thế giới công nhận giá trị ...
  • Diễn đàn đổi mới Power To X

    Vào ngày 17 tháng 6 năm 2019, Hội đồng Năng lượ...
  • Đại hội năng lượng thế giới lần thứ 24 sắp bắt đầu trong 100 ngày nữa!

    Sự kiện hàng đầu ba năm của Hội đồng Năng lượng...
  • Thông tin chi tiết mới! Cơ sở hạ tầng năng lượng: Khả năng chi trả Enabler hoặc ràng buộc khử cacbon?

    Hội đồng Năng lượng Thế giới đã đưa ra một Tóm ...
  • Hội thảo về Hydro được tổ chức bởi Hội đồng Năng lượng Thế giới

    Ngày 26 tháng 6, hội đồng năng lượng thế giới đ...

Chủ đề

  • Đội ngũ
    • Đối tác
    • Tình nguyện viên
  • Hoạt động & Dự án
    • Báo chí truyền thông
    • Nghiên cứu khoa học
    • Nghiên cứu pháp luật
    • Truyền thông, sự kiện
      • Hội thảo quốc tế BIOMASS
    • Tuyển dụng & Đào tạo
  • Tin tức
    • Tin hoạt động ngành năng lượng
    • Tin tức phát triển công nghệ
World Energy Council Vietnam

Chịu trách nhiệm nội dung: Titathy Nguyen © Bản quyền thuộc Ủy ban Năng lượng Việt Nam - WEC Vietnam
Ủy ban  Năng lượng Việt Nam | Địa chỉ 91 Nguyễn Chí Thanh | Hotline: 09 71 73 69 69 | Email: info@wecvietnam.org

vi Vietnamese
ar Arabiczh-CN Chinese (Simplified)nl Dutchen Englishfr Frenchde Germanit Italianja Japaneseko Koreanpt Portugueseru Russianes Spanishvi Vietnamese