PHẦN I – NGHIÊN CỨU VỀ NHIÊN LIỆU Ở VIỆT NAM
A- Phần mở đầu:
I- Tình hình năng lượng ở Việt Nam
Để tạo ra 1.000 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn khoảng 600 kg dầu quy đổi, cao gấp 1,5 lần so với Thái Lan và gấp 2 lần mức bình quân của thế giới. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu. Theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, được thiên nhiên ưu đãi và có gần như tất cả các nguồn tài nguyên năng lượng, nhưng khả năng khai thác, chế biến và sử dụng ở nước ta còn hạn chế.
Giai đoạn 2010-2020 có thể xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng nội địa, và Việt Nam chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.
Tình trạng lãng phí năng lượng ở nước ta rất lớn. Hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy điện đốt than, dầu chỉ đạt 28-32%, thấp hơn so với các nước phát triển 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới chừng 20%.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần (tức là để làm ra một giá trị sản phẩm như nhau, nước ta phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần). Tỷ lệ giữa tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam lên đến 2 lần, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là dưới 1.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp sản xuất xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh… của nước ta có thể đạt trên 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể lên tới trên 30%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ. Chi phí bỏ ra để tiết kiệm 1 kWh điện năng ít hơn nhiều so với chi phí đầu tư để sản xuất ra 1 kWh trong các nhà máy điện.
Ngoài ra, do hơn 80% nguồn năng lượng nước ta sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhiên liệu có nguồn gốc hữu cơ nên quá trình cháy nhiên liệu nói riêng và hoạt động năng lượng nói chung đều là những nhân tố lớn tham gia gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng năng lượng tạo ra khoảng 25% lượng phát thải CO2 và khoảng 15% tổng lượng khí nhà kính.Vì vậy, nếu tiết kiệm sử dụng năng lượng cũng có nghĩa là giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Ngành điện mỗi năm phải tăng trưởng đến 14-15% mới đáp ứng được yêu cầu tăng 6-8% GDP, trong khi bình quân thế giới, để tăng 1% GDP cũng chỉ tăng 1,2 – 1,5% năng lượng tiêu thụ.
Về nguyên nhân gây lãng phí và sử dụng không hiệu quả năng lượng, là do công nghệ lạc hậu; điện bị cắt giảm thường xuyên; hệ thống thiết bị, đường dây truyền tải ở một số khu vực đã quá cũ, chưa được thay thế; mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chưa đặt ra đúng tầm quan trọng; công tác quản lý sử dụng năng lượng còn nhiều bất hợp lý…
Việc tách rời khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng là không hiệu quả. Sản xuất phải gắn liền với sử dụng bởi nếu sản xuất thừa thì tiết kiệm mấy cũng không hiệu quả. Do đó việc khai thác và sử dụng phải là quy trình khép kín.
Đứng ở góc độ người dân, ai cũng mong muốn sử dụng năng lượng hiệu quả trong khi tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của chúng ta hiện nay rất lãng phí. Ngành điện thiếu điện nên cắt, người dân dùng ít điện cũng tiết kiệm nhưng tính hiệu quả thì chưa chắc đã có. Hao phí trên đường truyền tải đổ hết vào giá điện cho người dân. Như vậy gây nên sự lãng phí . Nếu chỉ khoanh lại trong phạm vi sử dụng thì không thỏa đáng.
Theo dự án Luật, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo…Các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng sẽ được quản lý chặt chẽ để từng bước nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng thông qua hoạt động dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Tiến tới loại bỏ dần các trang thiết bị, công nghệ tiêu tốn năng lượng. Chuyển giao công nghệ sử dụng nhiên liệu tái sinh, nhiên liệu sinh học trong giao thông vận tải…
Nguồn:Lê Xuân Thịnh
VIETNAMENERGY
Ngày 24/6, tại Hà Nội, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) đã tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021 và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
Nhiệt liệt Chào Mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
Đại diện các cơ quan Trung ương: Văn phòng Trung ương Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chính phủ; Ban Kinh tế Trung ương; Bộ Công Thương; Bộ Nội vụ,…
Nhiệt liệt chào mừng trên 300 đại biểu chính thức của Đại hội, là các đồng chí lãnh đạo các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo các Tổng công ty, các công ty và các đơn vị thành viên thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam về dự đại hội…
Với vai trò phản biện, kiến nghị với Đảng, Chính phủ về phát triển năng lượng quốc gia, Hiệp hội đã góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
Đại hội nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện các cơ quan thông tin đại chúng của Trung ương và Hà Nội đến tham dự, theo dõi và đưa tin.
Thành tích quan trọng trong suốt thời kỳ đổi mới của đất nước, ngành năng lượng Việt Nam đã đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Mức tăng trưởng năng lượng hàng năm đều gấp đôi mức tăng trưởng GDP của cả nước, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản các dự án năng lượng ngày càng phát triển và luôn đi trước một bước.
VEA đã tổ chức tư vấn, đề xuất các cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện một cách độc lâp, khách quan tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành chức năng – nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các thành viên khắc phục khó khăn để không ngừng phát triển.
Tại Đại hội nhiệm kỳ III, hơn 300 đại biểu chính thức đại diện cho người lao động của ngành Năng lượng Việt Nam đã đánh giá lại toàn bộ các hoạt động của nhiệm kỳ II, để rút ra những bài học, thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ III.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội đồng Khoa học của VEA đã đưa ra đã đưa ra 8 định hướng cho giai đoạn tới, nhằm phản biện tốt hơn các chính sách, giải pháp phát triển năng lượng cho Chính phủ, VEA và các đơn vị thành viên;
+ Trong nhiệm kỳ này, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Năng lượng Việt Nam (VESC) thực hiện, với mục tiêu hỗ trợ phát triển năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. VESC hiện có 5 sản phẩm, dịch vụ chính là: Kiểm toán năng lượng, Tư vấn thiết kế, Tuyển dụng và Đào tạo, Xúc tiến tài chính và Nghiên cứu phát triển. Thúc đẩy mở rộng và phát triển thị trường, sản xuất, kinh doanh và hợp tác khoa học – kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội Thủy điện vừa và nhỏ – Năng lượng xanh (MSH-GE), thúc đẩy sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả; về phân ngành Điện tiếp tục phát triển các nguồn điện mới nhằm tăng sản lượng, tăng công suất bổ sung vào Hệ thống điện quốc gia.
Thành tựu nổi bật trọng nhiệm kỳ qua
1- Quan tâm đặc biệt đến chức năng tư vấn chiến lược phát triển ngành Năng lượng;
2- Thực hiện tốt chức năng tư vấn xây dựng phát triển ngành Năng lượng;
3- Giữ được niềm tin trong hoạt động tư vấn dự án năng lượng;
4- Đề cao trách nhiệm là đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho ba thành viên EVN, PVN, TKV;
5- Tổ chức Hội chợ – Triển lãm và Hội thảo về năng lượng đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư phát triển ngành Năng lượng;
6- Duy trì và đẩy mạnh công tác tuyên truyền lên tầm cao mới phục vụ phát triển ngành Năng lượng Việt Nam;
7- Thành lập các đơn vị trực thuộc mới và phát triển thêm thành viên;
8- Tăng cường mối quan hệ mật thiết với các Bộ, Ngành, các Địa phương, các Tổ chức, Hiệp hội chuyên ngành và các Cơ quan Thông tin đại chúng;
9- Kịp thời chia sẻ với phân ngành Than trước tác động của thiên tai;
10- Thể hiện mạnh mẽ việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
VEA bám sát hoạt động của các thành viên trên tất cả các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý, sản xuất, vận chuyển và truyền tải, phân phối, kinh doanh, thăm dò, khai thác, chế biến, tồn trữ, xuất nhập khẩu năng lượng… để kịp thời kiến nghị tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các bộ, ngành chức năng, nhằm tháo gỡ những khó khăn tác động xấu đến sự phát triển của các thành viên.
Theo đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Chính phủ về việc xác định tiềm năng các nguồn năng lượng than, dầu khí, thủy điện, mặt trời, gió, sinh khối – khí sinh học, địa nhiệt… từ đó xác định đầu tư bằng công nghệ tiên tiến nhất, nguồn vốn khả thi, tổ chức thực hiện. Đặc biệt quan tâm đến xác định trữ lượng nguồn tài nguyên than ở khu vực Đông Bắc, Quảng Ninh, Đồng bằng sông Hồng, trên cơ sở đó đề xuất chiến lược phát triển phân ngành Than trong tương lai.
Những thách thức này, đòi hỏi các thành viên trong ngành Năng lượng Việt Nam phải nỗ lực hết mình, lao động sáng tạo, tích cực đổi mới và vận dụng quy luật của nền kinh tế trị trường, tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, phát huy vai trò của Hiệp hội VEA trong sự nghiệp phát triển mới.
Điện sinh khối (Biomass power) là việc sử dụng năng lượng sinh khối (Biomass) để sản xuất điện năng. Đây là dạng năng lượng tái tạo và có trữ lượng không nhỏ nên được nhiều nước quan tâm đầu tư và phát triển. Bài viết này sẽ đề cập về điện sinh khối, ứng dụng điện sinh khối ở một số nước trên thế giới và tiềm năng phát triển ở Việt Nam.
Năng lượng sinh khối và điện sinh khối
Sinh khối là vật liệu hữu cơ dự trữ ánh sáng mặt trời dưới dạng năng lượng hoá học, năng lượng từ mặt trời được “giữ” lại bởi cây cối qua quá trình quang hợp trong giai đoạn phát triển của chúng. Khi được đốt cháy, năng lượng hoá học này được giải phóng dưới dạng nhiệt dùng để nấu nướng, sưởi ấm và làm nhiên liệu.
Khi thực vật sinh trưởng, chúng hấp thụ khí các-bon-níc (CO2) trong môi trường và dự trữ nó thông qua quá trình quang hợp. Một lượng CO2 tương đương được giải phóng khi thực vật bị phân huỷ tự nhiên hoặc đốt cháy. Điều đó có nghĩa là năng lượng sinh khối không đóng góp vào quá trình phát thải khí nhà kính.
Trong tự nhiên, sinh khối bao gồm cây cối, cây trồng công nghiệp, tảo và các loài thực vật khác, hoặc là những bã nông nghiệp và lâm nghiệp (rơm rạ, bã mía, vỏ, xơ bắp, lá khô, vụn gỗ v.v…), giấy vụn, mêtan từ các bãi chôn lấp, trạm xử lý nước thải, phân từ các trại chăn nuôi gia súc và gia cầm…
Trên quy mô toàn cầu, năng lượng sinh khối là nguồn năng lượng lớn thứ tư, chiếm khoảng 14%-15% tổng năng lượng tiêu thụ của thế giới. Ở các nước đang phát triển, năng lượng sinh khối thường là nguồn năng lượng lớn, trung bình đóng góp khoảng 35% trong tổng cung cấp năng lượng. Vì vậy năng lượng sinh khối giữ vai trò quan trọng và có khả năng sẽ giữ vai trò sống còn trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của thế giới trong tương lai.
Điện sinh khối ở một số nước trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có sáu hệ thống điện sinh học lớn, bao gồm: Đốt biomass trực tiếp, đồng đốt cháy, khí hoá, tiêu hoá kỵ khí, nhiệt phân và hệ thống điện sinh học nhỏ, module. Ước tính tới năm 2020, sản lượng điện sinh khối của thế giới là hơn 30.000 MW.

Nhà máy điện sinh khối Alholmens, Phần Lan công suất 240 MW điện cộng với 160 MW nhiệt.nangluongvietnam.org
Mỹ là nước sản xuất điện biomass lớn nhất thế giới, có hơn 350 nhà máy điện sinh học, sản xuất trên 7.500MW điện mỗi năm. Những nhà máy này sử dụng chất thải từ nhà máy giấy, nhà máy cưa, sản phẩm phụ nông nghiệp, cành lá từ các vườn cây ăn quả… Năng lượng sinh khối chiếm 4% tổng năng lượng được tiêu thụ ở Mỹ và 45% năng lượng tái sinh.
Ở Nhật Bản, Chính phủ đã ban hành Chiến lược năng lượng sinh khối từ năm 2003 và hiện nay đang tích cực thực hiện Dự án phát triển các đô thị sinh khối (biomass town). Đến đầu năm 2011, Nhật Bản đã có 286 thị trấn sinh khối trải dài khắp đất nước.
Tại Hàn Quốc, năng lượng sinh khối đang được tích cực nghiên cứu, phát triển ở đất nước này với mục tiêu đến năm 2030 năng lượng tái tạo sẽ đạt 11%, trong đó năng lượng từ sinh khối sẽ đạt 7,12%.
Còn ở Trung Quốc đã có Luật năng lượng tái tạo và hiện nay đã có hơn 80 nhà máy điện sản xuất từ sinh khối với công suất đến 50MW/nhà máy. Tiềm năng là có thể đạt được 30GW điện từ loại hình năng lượng này.
Các nhà máy điện sinh khối thường có công suất bé dưới 10MW. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà máy điện sinh khối công suất lớn trên thế giới như:
+ Nhà máy điện sinh khối COLMAC ở Mecca, California, Mỹ công suất 47 MW.
+ Nhà máy điện Teesdies vương quốc Anh, công suất 295 MW được xây dựng và dự kiến bắt đầu hoạt động thương mại vào cuối năm nay.
+ Nhà máy điện sinh khối chuyên dụng Alholmens (Phần Lan), công suất 240 MW điện cộng với 160 MW nhiệt.
+ Nhà máy điện biomass công suất 50MW ở California, sử dụng phụ phẩm gỗ từ các nhà máy cưa lân cận.
+ Nhà máy điện sinh khối công suất 44 MW tại Steven’s Croft ở Scotland.
Điện sinh khối ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối như: gỗ, phế thải – phụ phẩm từ nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác… Trong đó, nguồn sinh khối chủ yếu vẫn là gỗ và phụ phẩm nông nghiệp như bảng sau.

nangluongvietnam.org
Theo Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21/7/2011 thì Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ phát triển năng lượng tái tạo chiếm 9,4% tổng công suất điện cả nước. Trong đó, điện gió đạt 6.200 MW, điện sinh khối 2.000 MW, các loại năng lượng khác như địa nhiệt, điện sản xuất từ rác thải sinh hoạt, khí sinh học… đạt khoảng 6.000 MW.
Một số nhà máy điện Biomass tại Việt Nam
– Dự án xây dựng nhà máy điện sinh học Biomass tại khu Rừng Xanh, thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng mức đầu tư 1.160 tỷ đồng, công suất 40MW, dự kiến đến năm 2013 nhà máy sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động với sản lượng điện là 331,5 triệu KWh/năm. Nhà máy hoạt động sẽ tạo điều kiện cho các hộ gia đình nông thôn bán phế thải hữu cơ nông nghiệp và rác thải sinh hoạt nông thôn cho nhà máy như: rơm, rạ, thân cây ngô, sắn, đỗ, lạc hoa, cây củi sau khai thác rừng…
– Tập đoàn tập đoàn Doosan (Hàn Quốc) đã chuẩn bị thủ tục để đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện sinh khối (Biomass) tại khu công nghiệp Minh Hưng – Hàn Quốc (huyện Chơn Thành) có công suất thiết kế 19 MW, cung cấp hơi nước 70m3/h. Dự án có vốn đầu tư 70 triệu USD. Nguyên liệu thô cung cấp cho nhà máy hoạt động chủ yếu từ thực vật ngành nông – lâm nghiệp. Tập đoàn sẽ hoàn tất thủ tục pháp lý và dự án có thể hoàn thành vào năm 2015.
– Nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại KCN Trà Nóc 2 TP. Cần Thơ do Công ty Cổ phần Nhiệt điện Đình Hải đầu tư, đã hoàn thành và đưa vào hoạt động giai đoạn 1 với công suất 20 tấn hơi/giờ. Nhà máy có công suất phát điện 2MW khi nhà máy vận hành ở chế độ không sản xuất hơi nước. Giai đoạn 2 của sẽ đầu tư turbine 3,7MW cấp điện lên lưới quốc gia.
– Những dự án nhiệt điện đốt trấu tại đồng bằng sông Cửu Long:
+ Tỉnh An Giang có 2 dự án nhà máy nhiệt điện đốt trấu gồm 1 nhà máy tại khu công nghiệp Hòa An, huyện Chợ Mới, công suất 10 MW, tổng vốn đầu tư trên 10 triệu USD. Nhà máy thứ 2 có công suất 10 MW, đặt tại xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, vốn đầu tư khoảng 15 triệu USD. Hai nhà máy này sẽ tiêu thụ khoảng 240.000 tấn trấu.
+ Tỉnh Tiền Giang có 1 dự án nhà máy nhiệt điện đốt trấu khoảng 10MW, vốn đầu tư trên 18,6 triệu USD.
+ Tỉnh Đồng Tháp dự kiến xây dựng 1 nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại ấp Bình Hiệp B, huyện Lấp Vò, tổng vốn 296 tỷ đồng, công suất thiết kế 10MW.
+ Tỉnh Kiên Giang sẽ đầu tư xây dựng 1 nhà máy điện trấu công suất 11 MW.
+ Tại Cần Thơ sẽ xây dựng thêm một nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại quận Thốt Nốt, công suất 10 MW, tiêu thụ khoảng 80.000 tấn trấu/năm.
Theo số liệu tính toán, cứ 5 kg trấu tạo ra 1 KW điện, như vậy với lượng trấu hàng triệu tấn trấu mỗi năm thu lại được hàng trăm MW điện. Theo Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam: “Việt Nam có nguồn trấu dồi dào. Đây là nguồn nguyên liệu phong phú phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện trong tương lai”.
Với lợi thế một quốc gia nông nghiệp, Việt Nam có nguồn sinh khối lớn và đa dạng từ gỗ củi, trấu, bã cà phê, rơm rạ và bã mía. Phế phẩm nông nghiệp rất phong phú dồi dào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, chiếm khoảng 50% tổng sản lượng phế phẩm nông nghiệp toàn quốc và vùng đồng bằng sông Hồng với 15% tổng sản lượng toàn quốc. Hàng năm tại Việt Nam có gần 60 triệu tấn sinh khối từ phế phẩm nông nghiệp trong đó 40% được sử dụng đáp ứng nhu cầu năng lượng cho hộ gia đình và sản xuất điện.
Trong khi nguồn năng lượng hoá thạch ngày càng cạn kiệt, nhu cầu sử dụng điện ngày càng cao thì giải pháp sử dụng nguồn điện sinh khối để thay thế mang ý nghĩa to lớn trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Hơn nữa, Việt Nam lại có tiềm năng to lớn để phát triển điện sinh khối cả trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, số các dự án năng lượng tái tạo đi vào hoạt động tính đến thời điểm này vẫn còn quá ít và chỉ có vài dự án là điện sinh khối nối lưới, việc đầu tư mang nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của quốc gia. Do vậy, đầu tư các nhà máy điện sinh khối không chỉ đáp ứng nhu cầu về điện ngày càng tăng mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước theo xu hướng phát triển bền vững. Ngoài ra, điện sinh khối còn giúp người nông dân có thêm nguồn thu nhập từ những thứ mà trước đây là phế thải như rơm, trấu, bã mía, mùn cưa,… vào tạo thêm nhiều việc làm cho họ.
Nguồn: Hồ Tấn Triêu
Theo các chuyên gia môi trường, Việt Nam có mức phát thải khí CO2 tăng vào loại nhanh trên thế giới, đặc biệt từ năm 1990 đến năm 200. Do vậy, cần triển khai các công trình xanh để giúp bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguồn tài nguyên trong suốt vòng đời của công trình. Các công trình xanh có thể tiết kiệm trung bình 30% điện, 30-50% nước, 50-90% chi phí xả thải.

nangluongvietnam.org
Những điều này đã gây thất thoát, lãng phí rất nhiều năng lượng. Ngoài ra, ý thức người sử dụng còn hạn chế. Bên cạnh đó, thiếu sự quản lý chặt chẽ từ cấp quản lý Nhà nước cũng là những nguyên nhân quan trọng gây thất thoát, lãng phí năng lượng trong các tòa nhà.
Theo các chuyên gia môi trường, Việt Nam có mức phát thải khí CO2 tăng vào loại nhanh trên thế giới, đặc biệt từ năm 1990 đến năm 2005, do vậy, cần triển khai các công trình xanh để giúp bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguồn tài nguyên trong suốt vòng đời của công trình. Theo các nghiên cứu, công trình xanh có thể tiết kiệm trung bình 30% điện, 30-50% nước, 50-90% chi phí xả thải.
Bên cạnh đó, công trình xanh còn được thiết kế để giảm thiểu những tác động nói chung của môi trường xây dựng đến sức khỏe con người và môi trường tự nhiên, thông qua sử dụng hiệu quả năng lượng, nước và các nguồn tài nguyên khác; bảo vệ sức khỏe người sử dụng công trình và nâng cao năng suất lao động; giảm thiểu chất thải, ô nhiễm và hủy hoại môi trường.
Theo số liệu của nhiều nhà khoa học trên thế giới, nếu áp dụng triệt để công nghệ xanh trong ngành xây dựng, kiến trúc (thiết kế và xây dựng công trình xanh, quy hoạch và xây dựng đô thị xanh) sẽ mang lại lợi ích to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường, sẽ tiết kiệm được khoảng 15-25% tiêu thụ nguồn tài nguyên về năng lượng, nước, vật liệu và đất xây dựng, đồng thời giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đảm bảo phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để kiểm soát, quản lý vận hành, bảo dưỡng năng lượng trong tòa nhà, cần quy hoạch, phân bổ báo cáo giám sát tiêu thụ năng lượng; quy hoạch và tổ chức vận hành, bảo dưỡng hệ thống kỹ thuật theo tháng, quý, năm… đào tạo các tiêu chuẩn và hướng dẫn kỹ thuật quản lý năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Ngoài ra, cần phải kiểm toán năng lượng hàng năm để giúp cho chủ sử dụng, các công ty quản lý tòa nhà có những đầu tư cải tạo hoặc cải tiến công tác quản lý năng lượng, nhằm đạt được các yêu cầu về tiết kiệm năng lượng theo quy định của pháp luật.
Nguồn: Chinhphu
Công ty Cổ phần Bóng đèn Điện Quang vừa cho ra đời sản phẩm bóng đèn Compact chống ẩm – là sản phẩm chuyên dụng để thắp sáng ngoài trời, đặc biệt là trong môi trường ẩm ướt.

nangluongvietnam.org
Về nguyên tắc hoạt động, khi được thắp sáng bóng đèn sẽ tỏa ra một lượng nhiệt lớn, do vậy khi bóng đèn sử dụng thắp ngoài trời, trong điều kiện không khí có độ ẩm cao. Đặc biệt, khi gặp sương muối, mưa… bóng đèn sẽ bị hiện tượng rạn nứt, bị nổ do mất cân bằng về nhiệt.
Ngoài ra, khi thắp sáng ngoài trời, ánh sáng đèn sẽ thu hút côn trùng (thiêu thân, rầy nâu) chui vào bóng gây chập điện, cháy nổ rất nguy hiểm cho người sử dụng. Nó đồng thời kéo theo một loạt các hệ lụy như: làm gián đoạn sản xuất, phát sinh chi phí thay thế tốn kém và tăng lượng rác thải ra môi trường…
Bóng đèn Compact chống ẩm của Điện Quang được thiết kế kín tuyệt đối, theo tiêu chuẩn IP 65, với vỏ bóng thủy tinh được tăng cường độ dày gấp đôi bóng thường giúp tăng độ bền cơ học.
Ngoài ra, bóng đèn Compact chống ẩm được thiết kế sử dụng linh kiện điện tử đặc biệt ít tỏa nhiệt nên giúp bóng đèn tiết kiệm điện và đảm bảo đúng hiệu suất phát sáng trong điều kiện điện áp thấp và thiếu ổn định (170~180V).
Bước tiến mới trong công nghệ sản xuất, bóng đèn compact chông ẩm của Điện Quang là giải pháp tối ưu cho việc thắp sáng ngoài trời, khắc phục triệt để hiện tượng bóng đèn bị hỏng do sốc nhiệt và côn trùng chui vào bóng.
Hiện bóng đèn compact chống ẩm của Điện Quang có hai loại ánh sáng là ánh sáng trắng và ánh sáng vàng, với 2 loại công suất 20W và 45W đặc biệt thích hợp cho nhu cầu chiếu sáng ngoài trời.
Nguồn: Tienphong
Rất nhiều người cho rằng điều hòa không khí thực sự là tiện nghi cần thiết. Tuy nhiên, tiền điện là mối lo ngại lớn khiến họ ngần ngại khi quyết định lựa chọn tiện nghi này. Công nghệ điều hòa không khí Inverter là giải pháp của các nhà sản xuất.

nangluongvietnam.org
Xét về mặt kỹ thuật, công suất làm lạnh thật sự của máy điều hòa không khí thông thường chỉ sử dụng năng lượng ở một mức, nghĩa là năng lượng làm lạnh ở một trong hai trạng thái: ngưng – phát. Cụ thể, khi đặt công suất 60% máy điều hòa không khí sẽ phát trong 60% thời gian và ngưng phát trong khoảng thời gian còn lại.
Việc cung cấp năng lượng ngắt quãng như thế sẽ làm cho điện năng cung cấp cũng bị ngắt quãng. Chính điều này đã tạo ra hiện tượng hao phí điện. Và đây cũng chính là hạn chế khá lớn của không ít máy điều hòa không khí hiện nay.
Bước đột phá
Để giải quyết nhược điểm này, công nghệ biến tần Inverter ra đời đã tạo ra bước đột phá trong việc đưa hao phí năng lượng đến mức thất nhấp. Công nghệ biến tần Inverter thay thế bộ biến áp và tụ điện thông thường bằng mạch biến tần phát công suất làm lạnh ở các mức năng lượng thấp, trung bình và cao với nhiều ưu điểm.
Tiết kiệm năng lượng tối đa với việc cung cấp mức phát đều đặn liên tục ngay cả khi chọn mức Medium hoặc Low. Đây là điểm khác biệt lớn so với mọi máy điều hòa không khí thông thường, chỉ có thể tạo hiệu suất liên tục khi chọn chế độ phát ở mức High, còn các chế độ khác chỉ thực hiện được bằng cách ngắt quãng.
Kết quả là điều hòa không khí Inverter tiết kiệm năng lượng và tăng hiệu suất. Khi sử dụng loại máy này trung bình 8 giờ/ngày, số tiền điện phải trả hằng tháng là khoảng 160.000 đồng. Mắt thông minh giúp tự động điều chỉnh nhiệt độ 20oC khi có người ra vào phòng để giảm tiêu hao điện đến 20%.
Ngoài ra, với công nghệ này, không khí lạnh sẽ truyền nhẹ nhàng sâu vào bên trong phòng, tránh tình trạng không khí lạnh tập trung cục bộ tại khu vực gần dàn lạnh, cho phép nâng cao hiệu suất điện năng.
Vài mẹo nhỏ
Các chuyên gia kỹ thuật của Cty Việt Kim – Nhà phân phối máy điều hòa nhãn hiệu Daikin (Nhật Bản) – đã đưa ra nhiều lời khuyên giúp người tiêu dùng tiết kiệm tối đa điện khi sử dụng điều hòa không khí.
Đầu tiên cần phải căn cứ vào vị trí, diện tích và cách nhiệt của phòng để lựa chọn máy. Với các căn hộ nhỏ thì có thể dùng loại hai mảnh hoặc một cục. Phòng có diện tích 9 – 15 m2 có thể gắn máy công suất 9.000 BTU/h, diện tích 15 – 20 m2 dùng máy 12.000 BTU/h, diện tích 20 – 30 m2 chọn loại 24.000 BTU/h.
Việc lựa chọn công suất thích hợp còn phụ thuộc vào số người thường xuyên trong phòng, độ che phủ ánh sáng mặt trời, cách nhiệt của phòng, vị trí và độ lớn của cửa sổ. Nếu phòng có bóng che giảm 10% công suất, nếu mặt trời chiếu suốt ngày, tăng 10% công suất.
Trung bình 6 tháng, cần vệ sinh máy một lần, nếu không hiệu suất máy sẽ giảm: độ lạnh kém, thời gian làm lạnh lâu, tiêu hao nhiều điện, thậm chí có thể dẫn đến cháy máy.
Nhiều người nghĩ rằng vệ sinh máy nghĩa là chỉ rửa lưới lọc, nhưng điều này là chưa đủ. Cần phải rửa cả dàn nóng, đường ống dẫn gas, block nén thì máy sẽ hoạt động với hiệu suất tốt hơn. Sau khi vệ sinh, máy sẽ phục hồi độ lạnh như cũ mà không cần nạp thêm gas.
Công nghệ biến tần Inverter đã xuất hiện từ trên 20 năm nay ở tất cả các hãng sản xuất điều hòa không khí nhưng do người tiêu dùng chưa nắm được những thông tin về công nghệ tiết kiệm năng lượng này nên chỉ có rất ít hãng tung sản phẩm ra thị trường như Daikin, Carrier, Mitsubishi, Panasonic.
Nguồn: Tienphong
Hiện nay, khi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã đi vào đời sống và thực sự tạo nên một “cơn sốt” đối với những đối tượng liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp trọng điểm. Trong đó, vấn đề liên quan đến việc thực hiện kiểm toán năng lượng(KTNL) đã được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Đây là tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên, những kiến thức về kiểm toán năng lượng hiện nay vẫn còn khá mới mẻ và chưa đầy đủ đối với nhiều doanh nghiệp.
Tại hội thảo “Trách nhiệm của doanh nghiệp trọng điểm với Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” do Trung tâm Tiết kiệm năng lượng TP. HCM (ECC-HCMC) phối hợp cùng Ban chỉ đạo thực hiện tiết kiệm điện tỉnh Bình Dương tổ chức ngày 10/5/2012 vừa qua, nhiều doanh nghiệp đã bày tỏ những băn khoăn liến quan đến vấn đề thực hiện TKNL theo Luật định. Thông qua đó, cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn còn khá mù mờ về kiến thức liên quan đến KTNL.
Đơn vị tư vấn KTNL: cung chưa đủ cầu
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả quy định doanh nghiệp trọng điểm (tiêu thụ 1000 tấn dầu quy đổi tương đương với 6 triệu kWh điện/năm) phải thực hiện kiểm toán năng lượng 3 năm 1 lần. Theo danh sách của Thủ tướng Chính phủ ban hành, năm 2011 có 1190 doanh nghiệp trọng điểm trên toàn quốc. Trong khi đó, cả nước hiện nay không có quá 3 đơn vị có năng lực tư vấn KTNL thực sự. Điều đó cho thấy, nhu cầu của thị trường KTNL là rất lớn.

nangluongvietnam.org
Tham dự hội thảo “Trách nhiệm của doanh nghiệp trọng điểm với Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” tại Bình Dương, gần 100 đại diện trong số 117 doanh nghiệp trọng điểm của địa phương này đã chia sẻ những khó khăn cũng như nhu cầu của mình trong việc hỗ trợ để thực thi đúng theo luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Điều quan trọng nhất chúng tôi ghi nhận được tại buổi hội thảo lần này chính là những lo ngại của các doanh nghiệp xung quanh việc lựa chọn đơn vị tư vấn thực hiện KTNL.
Chất lượng báo cáo KTNL phụ thuộc vào những yếu tố nào?
Đứng trước quy định bắt buộc của Luật, các doanh nghiệp trọng điểm phải thực hiện KTNL bằng cách tự thực hiện nếu doanh nghiệp có đủ năng lực hoặc là nhờ đến sự hỗ trợ của các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp. Thực tế, mặc dù Luật cho phép nhưng rất ít doanh nghiệp có thể tự thực hiện KTNL cho mình, vì để làm được điều đó, doanh nghiệp phải có kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề KTNL và trang bị đầy đủ các thiết bị đo đủ tiêu chuẩn. Chính vì thế, các doanh nghiệp muốn thực hiện KTNL phải tìm cho mình một đơn vị tư vấn. Tuy nhiên, để chọn được một đơn vị tư vấn vừa có thể giúp doanh nghiệp mình triển khai KTNL thực thi theo Luật vừa mang lại những giải pháp hiệu quả kinh tế từ việc tiết kiệm năng lượng là vấn đề mà chủ doanh nghiệp nêm xem xét cẩn trọng.

Ông Huỳnh Kim Tước – Giám đốc ECC-HCMC giải đáp thắc mắc của khách mời tại Hội thảo.nangluongvietnam.org
Quả thật, trên thị trường hiện nay cũng có nhiều đơn vị đang hoạt động với vai trò tư vấn KTNL nhưng xét về góc độ hiệu quả thực sự của công việc này, các chủ doanh nghiệp nên cân nhắc kỹ trước khi lựa chọn đơn vị tư vấn. Lời khuyên của các chuyên gia cho trường hợp này là các doanh nghiệp nên xem qua hồ sơ năng lực của đơn vị tư vấn trước khi phối hợp thực hiện KTNL.
Với những giá trị thiết thực mang lại từ việc KTNL nói riêng và các giải pháp về tiết kiệm năng lượng nói chung, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả không chỉ là quy định bắt buộc doanh nghiệp thực thi theo luật để đảm bảo mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cho quốc gia mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp cải tạo hệ thống sản xuất, nâng cao quy trình quản lý, từ đó góp phần gia tăng hiệu quả kinh doanh. Chính vì vậy, thực thi theo Luật cũng chính là cách giúp doanh nghiệp tự thay đổi để phù hợp hơn với thị trường và làm lợi cho chính bản thân doanh nghiệp.
Nguồn: ECC-HCMC
Tại lễ kỷ niệm 5 năm thành lập Tổng công ty Thăm dò, Khai thác Dầu khí (PVEP), ngày 11/5/2012, thay mặt Đảng và Nhà nước Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã trao Huân chương Độc lập hạng Ba cho tập thể CBCNV PVEP về những đóng góp to lớn trong việc đảm bảo an ninh năng lượng đất nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

nangluongvietnam,org
Mặc dù xuất phát điểm của PVEP thấp hơn so với các tổng công ty dầu khí quốc tế, nhưng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên, PVEP đã khẳng định được năng lực và tính chuyên nghiệp trong quản lý, điều hành các dự án dầu khí, khả năng làm chủ công nghệ, khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chuyên ngành dầu khí phức tạp, tăng cường tự chủ trong các hoạt động thăm dò, khai thác, tìm kiếm dầu khí, cũng như triển khai các dự án đầu tư ở trong và ngoài nước.
Tiền thân là Công ty Dầu khí 1 và 2, được thành lập từ năm 1988, đến tháng 5/2007, Tổng công ty Thăm dò, Khai thác Dầu khí – PVEP ra đời – là bước phát triển quan trọng của ngành Dầu khí nước nhà, nhằm thống nhất hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí ở Việt Nam và quốc tế.
Trong 5 qua, PVEP có những bước trưởng thành mạnh mẽ và đột phá. Sau khi chuyển đổi thành công mô hình tổ chức quản lý từ hạch toán phụ thuộc, sang hạch toán độc lập, vốn điều lệ và tổng tài sản của PVEP tăng 400%, tổng mức đầu tư trung bình hàng năm đạt 1 – 1,5 tỷ USD.
PVEP hiện đang quản lý, điều hành khai thác hiệu quả nhiều dự án mỏ quan trọng trong và ngoài nước như: Sư Tử Vàng, Đại Hùng 2, Tê Giác Trắng, Chim Sáo, các dự án tại: Malaysia, Algeria, Venezuela… góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu gia tăng trữ lượng, trở thành đơn vị có sản lượng khai thác dầu khí hàng đầu của Việt Nam, với sản lượng dầu chiếm trên 60% và sản lượng khí chiếm trên 90% sản lượng cả nước.
Hiện PVEP đang triển khai thực hiện 62 dự án dầu khí, trong đó 44 dự án dầu khí trong nước và 18 dự án dầu khí nước ngoài. Các dự án dầu khí đang triển khai ở 15 quốc gia khác nhau, PVEP là đơn vị tiên phong trong mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
Trong giai đoạn 2007-2011, tổng sản lượng khai thác dầu khí đạt 77,1 triệu tấn quy dầu, trong đó, sản lượng khai thác dầu và condensate đạt 40,6 triệu tấn, khai thác khí đạt 36,5 tỷ m3, gia tăng trữ lượng đạt 272,8 triệu tấn quy dầu, đưa 13 mỏ mới ở trong nước và 3 mỏ mới ở nước ngoài vào khai thác, doanh thu đạt trên 171.000 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước đạt 59.000 tỷ đồng.
Khẳng định vai trò hàng đầu về cung cấp dầu khí, PVEP còn là đơn vị có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội.
Với những đóng góp to lớn của PVEP, Chủ tịch nước đã quyết định tặng Huân chương Lao động cho Tổng giám đốc PVEP Đỗ Văn Khạnh và một số tập thể, cá nhân có những thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất.
Nguồn: NangluongVietnan
Ngày 4/4/2012, thứ trưởng Bộ Công Thương, Hoàng Quốc Vượng đã ký ban hành thông tư quy định dán nhãn năng lượng cho các phương tiện và thiết bị sử dụng năng lượng.

Hình ảnh về nhãn năng lượng.nangluongvietnam.org
Theo đó, điều kiện để một tổ chức được chỉ định tham gia thử nghiệm phương tiện, thiết bị tiêu thụ năng lượng phải có đủ năng lực nằm trong Hệ thống công nhận Phòng thử nghiệm Việt Nam, được công nhận theo tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025 hoặc các Tổ chức thử nghiệm nước ngoài đã được công nhận bởi các tổ chức công nhận đã ký kết thoả ước thừa nhận lẫn nhau (ILAC hoặc APLAC).
Đối với những tổ chức thử nghiệm chưa được công nhận theo tiêu chuẩn của hệ thống VILAS, TCVN ISO/IEC 17025 nhưng có đủ năng lực thử nghiệm các chỉ tiêu tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết bị phải đạt các tiêu chuẩn như: có nhân viên thử nghiệm được đào tạo đúng chuyên ngành kỹ thuật; có thiết bị thí nghiệm đảm bảo hoạt động tốt, được bảo dưỡng, kiểm định, hiệu chuẩn đúng theo quy định và đủ độ chính xác để thực hiện các chỉ tiêu thử nghiệm; có đầy đủ các trang thiết bị phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn…
Các tổ chức, thử nghiệm tham gia hoạt động thử nghiệm để dán nhãn phải lập hồ sơ đăng ký gửi về Tổng cục Năng lượng.
Các phương tiện, thiết bị đã đạt chứng nhận tiết kiệm năng lượng ở nước ngoài chỉ được chấp nhận tại Việt Nam khi tổ chức thử nghiệm phải là tổ chức độc lập được công nhận theo chuẩn mực ISO/IEC 17025 (hoặc tương đương), bởi các tổ chức công nhận đã ký kết thoả ước thừa nhận lẫn nhau (ILAC hoặc APLAC). Tổ chức thử nghiệm có yếu tố nước ngoài phải đăng ký chỉ định với Tổng cục Năng – Bộ Công Thương.
Về trình tự, thủ tục đánh giá, cấp chứng nhận và dán nhãn năng lượng, thông tư cũng quy định rõ, doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu phương tiện, thiết bị thuộc Danh mục tham gia chứng nhận và dán nhãn năng lượng (nhãn xác nhận hoặc nhãn so sánh) cần lấy mẫu phương tiện, gửi tới tổ chức thử nghiệm được Bộ Công Thương chỉ định để thử nghiệm theo tiêu chuẩn tương ứng để được cấp phiếu kết quả thử nghiệm.
Doanh nghiệp lập hồ sơ theo hướng dẫn và gửi về Tổng cục Năng lượng. Các phương tiện, thiết bị đạt tiêu chuẩn sẽ được Bộ Công Thương cấp chứng nhận dán nhãn năng lượng.
Thông tư cũng hướng dẫn chi tiết, cách thức, kích thước khi dán nhãn năng lượng lên từng phương tiện, thiết bị cụ thể. Hết thời gian chứng nhận có hiệu lực, doanh nghiệp phải tiến hành chứng nhận lại cho phương tiện, thiết bị.
Bất thường hoặc định kỳ, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiến hành kiểm tra mẫu phương tiện, thiết bị trên thị trường hoặc tại cơ sở sản xuất. Tùy theo mức độ vi phạm, Bộ Công Thương sẽ thu hồi giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng và xử phạt theo pháp luật.
Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2012.
Nguồn: VNEEP
Các công nghệ chung sản xuất năng lượng sinh khối
Sinh khối có thể được xử lý ở nhiều dạng chuyển đổi khác nhau để tạo ra năng lượng, nhiệt lượng, hơi và nhiên liệu. Hầu hết các quá trình chuyển đổi sinh khối có thể được chia ra làm hai loại như sau:
- Chuyển đổi nhiệt hóa: bao gồm đốt nhiệt, khí hóa và nhiệt phân
- Chuyển đổi sinh hóa: bao gồm phân hủy yếm khí (sản phẩm sinh khối và hỗn hợp methane và CO2) và lên men (sản phẩm ethanol).
Một quá trình khác là chiết xuất, chủ yếu là quá trình cơ học, có nhiều cách chiết suất khác nhau, phụ thuộc vào sản phẩm của quá trình này là nhiệt, điện năng hoặc nhiên liệu.
Sản xuất điện từ năng lượng sinh khối
Cho đến ngày nay, có khá nhiều kỹ thuật chuyển sinh khối thành điện năng. Các công nghệ phổ biến nhất bao gồm: đốt trực tiếp hoặc tạo hơi nước thông thường, nhiệt phân đốt kết hợp co-firing, khí hóa, phân hủy yếm khí, sản xuất điện từ khí thải bãi chôn lấp rác.
Công nghệ đốt trực tiếp và lò hơi
Đây là 2 phương pháp tạo điện từ sinh khối rất phổ biến và được vận dụng ở hầu hết các nhà máy điện năng lượng sinh khối. Cả 2 dạng hệ thống này đều đốt trực tiếp các nguồn nguyên liệu sinh học để tạo hơi nước dùng quay turbin máy phát điện. Hai phương pháp này được phân biệt ở cấu trúc bên trong buồng đốt hoặc lò nung. Tại hệ thống đốt trực tiếp, sinh khối được chuyển vào từ đáy buồng đốt và không khí được cung cấp tại đáy bệ lò. Trong khi đó, ở phương pháp lò hơi thông thường, được chuyển vào lò từ phía bên trên nhưng sinh khối vẫn được tải xuống phía dưới đáy lò. Các hệ thống đốt trực tiếp truyền thống là hệ thống pile (sử dụng lò đốt 2 cấp – two-chamber combustion chamber) hoặc lò hơi stoker. Khí nóng sau đó được chuyển qua turbine và quay cánh turbine, vận hành rotor máy phát điện.
Khi được sử dụng để đốt trực tiếp, sinh khối phải được hun khô, cắt thành mảnh vụn, và ép thành bánh than
Một khi quá trình chuẩn bị được hoàn tất, sinh khối được đưa vào lò nung để tạo nhiệt. Nhiệt tạo ra từ quá trình đun, ngoài việc cung cấp cho turbin máy phát điện, còn có thể được sử dụng để điều nhiệt nhà máy và các công trình xây dựng khác, tức là để khai thác tối đa hiệu suất. Nhà máy dạng này còn được gọi là nhà máy liên hợp nhiệt-năng lượng (Combined Heat Power – CHP), tức là tận dụng lẫn nhiệt và hơi nước để khai thác tối đa tiềm năng năng lượng được tạo ra, tránh lãng phí năng lượng.
Phương pháp đốt liên kết
Đốt liên kết, kết hợp sinh khối với than để tạo năng lượng, có lẽ là phương pháp sử dụng tích hợp tốt nhất sinh khối vào hệ thống năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa thạch.
Trong quá trình đốt liên kết, sinh khối bắt nguồn từ gỗ và cây cỏ như gỗ dương (poplar), liễu, cỏ mềm có thể được trộn một phần vào nguyên liệu cho nhà máy than thông thường. Quá trình này, sinh khối có thể chiếm tỷ lệ 1%-15% tổng năng lượng của nhà máy than. Trong các nhà máy dạng này, sinh khối cũng được đốt trực tiếp trong lò nung, tương tự như than. Phương pháp đốt liên kết có một lợi thế kinh tế tương đối rõ ràng, do kinh phí đầu tư chủ yếu chỉ là để trang bị một lò đốt liên kết mới hoặc nâng cấp lò đốt hiện tại trong nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, tức là có chi phí thấp hơn nhiều so với xây dựng một nhà máy điện sinh khối.
Nhiệt phân
Nhiệt phân là quá trình đốt sinh khối ở nhiệt độ rất cao và sinh khối phân rã trong môi trường thiếu khí oxy. Vấn đề trở ngại ở đây là rất khó tạo ra một môi trường hoàn toàn không có oxy. Thông thường, một lượng nhỏ oxy hóa vẫn diễn ra và có thể tạo ra một số sản phẩm phụ không mong muốn. Ngoài ra, công nghệ này đòi hỏi một nguồn thu nhiệt lượng cao và do đó vẫn còn rất tốn kém. Quá trình đốt sinh khối tạo ra dầu nhiệt