Chuyên trang Kinh tế Việt Nam của Báo Công thương, Cơ quan ngôn luận của báo Công thương: Tìm hướng phát triển Năng lượng Sinh khối
Báo Tài nguyên và Môi trường: Lợi ích kép từ năng lượng sinh khối
Bnews, Thông tấn xã Việt Nam: Động lực phát triển năng lượng sinh khối
Năng lượng Việt Nam: Năng lượng Sinh khối góp phần đảm bảo an ninh năng lượng
Trang thông tin điện tử đài truyền hình Sóc Trăng: Thực trạng và giải pháp phát triển năng lượng Sinh khối ở Việt Nam
VietQ: Phát triển năng lượng sinh khối chưa xứng với tiềm năng
Giáo dục Thời đại: Tìm hướng phát triển năng lượng sinh khối
Ngày Nay: Khai thác năng lượng sinh khối chưa xứng với tiềm năng
Báo Tài nguyên và Môi trường: Ra mắt cuốn sách năng lượng xanh Việt Nam
PHẦN I – NGHIÊN CỨU VỀ NHIÊN LIỆU Ở VIỆT NAM
A- Phần mở đầu:
I- Tình hình năng lượng ở Việt Nam
Để tạo ra 1.000 USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn khoảng 600 kg dầu quy đổi, cao gấp 1,5 lần so với Thái Lan và gấp 2 lần mức bình quân của thế giới. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu. Theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, được thiên nhiên ưu đãi và có gần như tất cả các nguồn tài nguyên năng lượng, nhưng khả năng khai thác, chế biến và sử dụng ở nước ta còn hạn chế.
Giai đoạn 2010-2020 có thể xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng nội địa, và Việt Nam chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.
Tình trạng lãng phí năng lượng ở nước ta rất lớn. Hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy điện đốt than, dầu chỉ đạt 28-32%, thấp hơn so với các nước phát triển 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới chừng 20%.
Cường độ năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần (tức là để làm ra một giá trị sản phẩm như nhau, nước ta phải tiêu tốn năng lượng gấp 1,5-1,7 lần). Tỷ lệ giữa tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam lên đến 2 lần, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là dưới 1.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp sản xuất xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh… của nước ta có thể đạt trên 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể lên tới trên 30%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ. Chi phí bỏ ra để tiết kiệm 1 kWh điện năng ít hơn nhiều so với chi phí đầu tư để sản xuất ra 1 kWh trong các nhà máy điện.
Ngoài ra, do hơn 80% nguồn năng lượng nước ta sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhiên liệu có nguồn gốc hữu cơ nên quá trình cháy nhiên liệu nói riêng và hoạt động năng lượng nói chung đều là những nhân tố lớn tham gia gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng năng lượng tạo ra khoảng 25% lượng phát thải CO2 và khoảng 15% tổng lượng khí nhà kính.Vì vậy, nếu tiết kiệm sử dụng năng lượng cũng có nghĩa là giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Ngành điện mỗi năm phải tăng trưởng đến 14-15% mới đáp ứng được yêu cầu tăng 6-8% GDP, trong khi bình quân thế giới, để tăng 1% GDP cũng chỉ tăng 1,2 – 1,5% năng lượng tiêu thụ.
Về nguyên nhân gây lãng phí và sử dụng không hiệu quả năng lượng, là do công nghệ lạc hậu; điện bị cắt giảm thường xuyên; hệ thống thiết bị, đường dây truyền tải ở một số khu vực đã quá cũ, chưa được thay thế; mục tiêu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chưa đặt ra đúng tầm quan trọng; công tác quản lý sử dụng năng lượng còn nhiều bất hợp lý…
Việc tách rời khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng là không hiệu quả. Sản xuất phải gắn liền với sử dụng bởi nếu sản xuất thừa thì tiết kiệm mấy cũng không hiệu quả. Do đó việc khai thác và sử dụng phải là quy trình khép kín.
Đứng ở góc độ người dân, ai cũng mong muốn sử dụng năng lượng hiệu quả trong khi tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của chúng ta hiện nay rất lãng phí. Ngành điện thiếu điện nên cắt, người dân dùng ít điện cũng tiết kiệm nhưng tính hiệu quả thì chưa chắc đã có. Hao phí trên đường truyền tải đổ hết vào giá điện cho người dân. Như vậy gây nên sự lãng phí . Nếu chỉ khoanh lại trong phạm vi sử dụng thì không thỏa đáng.
Theo dự án Luật, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo…Các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng sẽ được quản lý chặt chẽ để từng bước nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng thông qua hoạt động dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Tiến tới loại bỏ dần các trang thiết bị, công nghệ tiêu tốn năng lượng. Chuyển giao công nghệ sử dụng nhiên liệu tái sinh, nhiên liệu sinh học trong giao thông vận tải…
Nguồn:Lê Xuân Thịnh
Các cố vấn của chính phủ Anh thừa nhận nước này đang thờ ơ trước những lợi ích to lớn của nguồn năng lượng biomass (năng lượng sinh khối, hay năng lượng từ vật liệu hữu cơ). Biomass có thể giải quyết tình trạng thay đổi khí hậu, biến chất thải, phế phẩm của ngành nông, lâm nghiệp thành nhiệt và năng lượng.
Kết luận trên do Uỷ ban Ô nhiễm Môi trường Hoàng gia (RCEP) công bố trong báo cáo chi tiết mang tên Biomass Nguồn năng lượng tái sinh. Giáo sư Tom Blundell, chủ tịch RCEP, đồng thời là trưởng Khoa Hoá Sinh tại ĐH Cambridge, cho biết: ”Tôi rất thất vọng vì nước Anh chưa phát triển năng lượng biomass nhanh như các quốc gia châu Âu khác. Biomass có thể đóng góp đáng kể vào mục tiêu chống thay đổi khí hậu của Anh. Chính sách của chính phủ Anh về biomass là đứt đoạn và sai hướng”. Trước khi nghiên cứu bắt đầu vào tháng 8/2003, GS Blundell nói: ”Anh đang tụt lại đằng sau. Nếu chính phủ muốn đạt được các mục tiêu giảm khí nhà kính như đã tuyên bố, việc cấp bách là nghiên cứu và ủng hộ các nguồn năng lượng có thể tái sinh này”. Sử dụng biomass cũng sẽ cung cấp cơ hội mới cho nông nghiệp và ngư nghiệp của nước Anh, đồng thời cải thiện an ninh năng lượng của quốc gia này. Uỷ ban tin rằng tới năm 2050, biomass có thể cung cấp 10-15% tổng năng lượng của Anh. RCEP cho biết năng lượng biomass khác các dạng năng lượng tái sinh khác ở hai khía cạnh. Thứ nhất, không giống năng lượng gió và sóng, biomass có thể kiểm soát được. Thứ hai, cùng một lúc biomass vừa cung cấp nhiệt, vừa sản xuất điện năng. Biomass có nhiều dạng: gỗ, sản phẩm phụ của ngành lâm nghiệp như mùn cưa, chất thải nông nghiệp chẳng hạn như rơm, phân chuồng, cây năng lượng (mía, liễu). Ngoài ra, còn có chất thải thực vật từ công viên, vườn, lề đường. Tất cả những nguồn năng lượng trên đều sẵn có ở Anh. Báo cáo của RCEP kêu gọi chính phủ Anh đưa ra quy định bắt buộc các nhà cung cấp nhiệt hiện nay (dầu, khí và điện) cung cấp một phần nhiệt từ các nguồn năng lượng tái sinh. Quy định này sẽ có hiệu lực vào một thời điểm cụ thể. Ngoài ra, cần thành lập diễn đàn biomass giữa chính phủ với ngành cung cấp nhiệt, điện. Tất cả các dự án phát triển mới đều phải lập kế hoạch xây dựng nhà máy sản xuất nhiệt, điện kết hợp, sử dụng nhiên liệu biomass.
Biomass là vật liệu hữu cơ dự trữ ánh sáng mặt trời dưới dạng năng lượng hoá học. Khi được đốt cháy, năng lượng hoá học này được giải phóng dưới dạng nhiệt. Cái mà chúng ta ngày nay gọi là biomass đã sưởi ấm cho các căn hộ và toà nhà trên toàn thế giới trong hàng nghìn năm. Trên thực tế, biomass tiếp tục là nguồn năng lượng lớn tại các quốc gia đang phát triển. Gỗ vẫn là nguồn năng lượng biomass lớn nhất trên thế giới. Lợi ích môi trường, an ninh năng lượng thực sự của biomass sẽ xuất hiện khi con người sử dụng một lượng lớn biomass để sản xuất điện năng, nhiệt và các loại nhiên liệu sinh học khác, do đó, giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Chu kỳ carbon là nguyên tắc đứng đằng sau công nghệ biomass. Khi thực vật sinh trưởng, chúng hấp thụ CO2 trong môi trường và dự trữ nó thông qua quá trình quang hợp. Một lượng CO2 tương đương được giải phóng khi thực vật bị phân huỷ tự nhiên hoặc đốt cháy. Điều đó có nghĩa là biomass không đóng góp vào quá trình phát thải khí nhà kính. Nhiên liệu sinh học. Không giống như các nguồn năng lượng tái sinh khác, biomass có thể được biến trực tiếp thành các loại nhiên liệu lỏng – nhiên liệu sinh học – cho các phương tiện vận tải (ô-tô con, xe tải, xe buýt, máy bay, tàu hoả). Có hai dạng nhiên liệu sinh học phổ biến nhất là ethanol và diesel sinh học.
Ethanol là một loại cồn, tương tự như cồn trong bia và rượu. Nó được sản xuất bằng cách lên men bất kỳ loại biomass nào có hàm lượng carbohydrate cao (tinh bột, đường hoặc celluloses) thông qua một quá trình tương tự như lên men bia. Ethanol chủ yếu được sử dụng làm phụ gia nhiên liệu để giảm lượng carbon monoxide và các loại khí thải gây sương khói khác từ xe cộ. Hiện đã có các loại xe sử dụng nhiên liệu linh hoạt gồm xăng và 85% ethanol. Diesel sinh học được sản xuất bằng cách kết hợp cồn (thường là methanol) với dầu thực vật, mỡ động vật hoặc các loại mỡ nấu ăn được tái chế. Nó có thể được sử dụng làm chất phụ gia nhiên liệu để giảm lượng khí thải cho xe cộ (20%). Ở dạng thuần khiết, diesel sinh học được sử dụng làm nhiên liệu cho các động cơ diesel. Các loại nhiên liệu sinh học khác bao gồm methanol và các thành phần biến tính khác của xăng. Methanol, thường được gọi là cồn gỗ, hiện được sản xuất từ khí tự nhiên. Tuy nhiên, cũng có thể sản xuất nó từ biomass. Có một số cách biến biomass thành methanol song biện pháp phổ thông nhất là khí hoá. Khí hoá liên quan tới việc làm bốc hơi biomass ở nhiệt độ cao, rồi loại bỏ các tạp chất từ khí nóng và cho nó đi qua một chất xung tác. Chất xúc tác biến khí thành methanol. Phần lớn các thành phần biến tính của xăng được sản xuất từ biomass là những phụ gia nhiên liệu giảm ô nhiễm, chẳng hạn như methyl tertiary butyl ether (MTBE) và ethyl tertiary butyl ether (ETBE). Điện sinh học. Điện sinh học là việc sử dụng bimomass để sản xuất điện năng. Có sáu hệ thống điện sinh học lớn trên thế giới bao gồm đốt biomass trực tiếp, đồng đốt cháy, khí hoá, tiêu hoá kỵ khí, nhiệt phân và hệ thống điện sinh học nhỏ, module.
Ước tính tới năm 2020, sản lượng điện sinh học của thế giới là hơn 30.000 megawatt (MW). Mỹ là nước sản xuất điện biomass lớn nhất thế giới, có hơn 350 nhà máy điện sinh học, sản xuất trên 7.500MW điện mỗi năm, đủ để cung cấp cho hàng triệu hộ gia đình, đồng thời tạo ra 66.000 việc làm. Những nhà máy này sử dụng chất thải từ nhà máy giấy, nhà máy cưa, sản phẩm phụ nông nghiệp, cành lá từ các vườn cây ăn quả. Bộ Năng lượng Mỹ dự báo các công nghệ tiên tiến hiện đang được phát triển hiện nay sẽ giúp ngành điện biomass sản xuất trên 13.000MW vào năm 2010 và tạo thêm 100.000 việc làm. Năng lượng biomass chiếm 4% tổng năng lượng được tiêu thụ ở Mỹ và 45% năng lượng tái sinh. Phần lớn các nhà máy điện sinh học trên thế giới sử dụng hệ thống đốt trực tiếp. Họ đốt nguyên liệu sinh học trực tiếp để tạo hơi nước. Hơi nước đó bị tua-bin bắt giữ và máy phát điện sau đó biến nó thành điện. Trong một số ngành công nghiệp, hơi nước từ nhà máy điện cũng được sử dụng cho sản xuất hoặc để sưởi ấm cho các toà nhà. Những nhà máy điện này được gọi là nhà máy nhiệt – điện kết hợp. Chẳng hạn như phụ phẩm của gỗ (mùn cưa) thường được sử dụng để sản xuất cả điện và tạo nhiệt ở các nhà máy giấy.
Nhiều nhà máy điện đốt than có thể sử dụng các hệ thống đồng đốt cháy để giảm đáng kế lượng khí thải đặc biệt là sulfur dioxide. Đồng đốt cháy liên quan tới việc sử dụng biomass như một nguồn năng lượng bổ sung trong các nồi hơi hiệu quả cao. Chỉ cần vài thay đổi nhỏ là các nhà máy điện đốt than có thể sử dụng hệ thống đồng đốt cháy. Do vậy, tiềm năng phát triển của nó trong tương lai là rất lớn. Hệ thống khí hoá sử dụng nhiệt độ cao và môi trường hiếm oxy để biến biomass thành một loại khí – khí biogas hay khí sinh học (hỗn hợp gồm hydrro, CO và methane). Loại khí này cung cấp nhiên liệu cho turbine khí để sản xuất điện năng. Cũng có một số nhà máy điện sử dụng chu trình hơi khác một chút. Nhiên liệu biomass được biến thành các loại khí đốt điều áp, nóng, trong buồng khí hoá. Chúng được làm sạch (loại bỏ tạp chất) để tránh làm bào mòn hệ thống sản xuất nhiệt, điện. Tiếp đến, các loại khí sạch được đốt cùng với không khí trong buồng đốt trước khi đi vào một turbine để sản xuất điện. Nhiệt đi ra từ tua-bin khí được dẫn vào buồng trao đổi nhiệt để làm nóng nước lạnh, cung cấp cho các hộ gia đình. Biomass phân huỷ tạo ra khí methane mà có thể được sử dụng làm năng lượng. Tại các bãi chôn lấp (nơi ủ các vật liệu hữu cơ như phân, rau xanh, rơm…), các giếng được khoan để hút khí methane từ chất hữu cơ đang phân huỷ. Sau đó, các ống từ mỗi giếng sẽ vận chuyển khí tới một nơi trung tâm để lọc và làm sạch trước khi đốt. Methane cũng có thể được sản xuất từ biomass thông qua một quy trình được gọi là tiêu hoá kỵ khí. Tiêu hoá kỵ khí liên quan tới việc sử dụng vi khuẩn để phân huỷ chất hữu cơ trong điều kiện thiếu oxy. Methane có thể được sử dụng làm nhiên liệu theo nhiều cách. Phần lớn các cơ sở đốt nó trong một nồi hơi, tạo hơi nước sản xuất điện hoặc sử dụng cho mục đích công nghiệp. Methane cũng có thể được sử dụng làm nhiên liệu trong tế bào nhiên liệu. Tế bào nhiên liệu hoạt động giống như pin song không cần tái nạp. Nó tạo điện chừng nào có nhiên liệu. Ngoài khí, nhiên liệu lỏng cũng được sản xuất từ biomass thông qua một quy trình gọi là nhiệt phân. Nhiệt phân xảy ra khi biomass được nung nóng trong điều kiện thiếu oxy. Sau đó, biomass biến thành một chất lỏng gọi là dầu nhiệt phân. Có thể đốt dầu nhiệt phân giống như xăng để sản xuất điện năng. Một hệ thống điện sinh học sử dụng nhiệt phân hiện đang được thương mại hoá tại Mỹ. Các chế phẩm sinh học. Con người có thể sử dụng biomass để sản xuất mọi sản phẩm như họ đã làm từ nhiên liệu hoá thạch. Những sản phẩm sinh học đó không chỉ được làm từ các nguồn tái sinh mà còn cần ít năng lượng hơn trong quá trình sản xuất.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tiến trình sản xuất nhiên liệu sinh học cũng có thể được sử dụng để sản xuất chất chống đông, chất dẻo, keo, chất làm ngọt và gel cho thuốc đánh răng. Khi biomass được nung nóng với một lượng oxy nhỏ, một lượng lớn carbon monoxide và hydro được tạo ra. Các nhà khoa học gọi hỗn hợp này là khí sinh tổng hợp. Khí sinh tổng hợp được sử dụng để tạo chất dẻo và a-xít. Khi biomass được nung nóng trong điều kiện không có oxy, nó hình thành dầu nhiệt phân. Một hoá chất có tên là phenol có thể được chiết xuất từ dầu nhiệt phân. Phenol được sử dụng để chế tạo chất dán gỗ, chất dẻo đổ khuôn và nhiều chất khác. Khái niệm mới: Nhà máy lọc sinh học Nhiên liệu biomass được sử dụng ở Ấn Độ chiếm khoảng 30% tổng nhiên liệu được sử dụng tại quốc gia này, là nguồn nhiên liệu quan trọng nhất được sử dụng ở trên 90% hộ gia đình nông thôn và chừng 15% hộ gia đình đô thị, đặc biệt hữu ích đối với các gia đình có nuôi gia súc. Hiện nhiều nhà máy biogas đã được xây dựng ở Ấn Độ. Nhà máy lọc sinh học là một cơ sở kết hợp thiết bị và các tiến trình chuyển biến biomass để sản xuất nhiên liệu, điện năng và các hoá chất từ biomass. Khái niệm nhà máy lọc sinh học tương tự như các nhà máy lọc dầu ngày nay mà sản xuất nhiều nhiên liệu cũng như sản phẩm từ dầu. Các nhà máy lọc sinh học công nghiệp đã được coi là con đường hứa hẹn nhất dẫn tới việc tạo lập một ngành mới, dựa trên sinh học ở Mỹ. Bằng cách sản xuất nhiều sản phẩm, một nhà máy lọc sinh học có thể tận dụng được các thành phần khác nhau của biomass, đồng thời tối đa hoá giá trị thu được từ biomass. Một nhà máy như vậy có thể sản xuất một hoặc nhiều hoá chất giá trị cao, khối lượng ít và một loại nhiên liệu lỏng cho vận tải với giá trị thấp, khối lượng lớn. Đồng thời, nhà máy cũng sản xuất điện, nhiệt để sử dụng trong nội bộ và có lẽ là thừa điện để bán ra ngoài. Sản phẩm giá trị cao tăng cường lợi nhuận, nhiên liệu khối lượng nhiều đáp ứng nhu cầu năng lượng quốc gia và sản xuất điện tránh phát thải khí nhà kính cũng như giảm chi phí. Phòng Thí nghiệm Năng lượng tái sinh quốc gia của Mỹ đang thực hiện Chương trình Biomass, liên quan tới sáu dự án nhà máy lọc sinh học lớn. Những dự án này tập trung vào các công nghệ mới nhằm kết hợp việc sản xuất nhiên liệu từ biomass và các sản phẩm khác trong cùng một cơ sở.
Minh Sơn (Tổng hợp)
Việt Báo (Theo_VietNamNet )
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội An và 60 tỉnh, TP đã đồng loạt tắt đèn từ 20h30 đến 21h30 ngày 19 tháng 3 hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất 2016.
Tại Quảng trường Cách Mạng tháng Tám, Hà Nội, gần 5000 người đã có mặt cùng đếm ngược chứng kiến sự kiện tắt đèn truyền đi thông điệp “HÀNH ĐỘNG NHỎ, Ý NGHĨA LỚN”. Chương trình được Truyền hình trực tiếp trên sóng VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam.
Chiến dịch Giờ Trái đất 2016 do Bộ Công Thương chủ trì với sự hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Đại sứ Đan mạch tại Việt Nam và Daikin Việt Nam. Trong đó Tập đoàn Điện lực Việt Nam là nhà tài trợ chính của Chiến dịch 8 năm liên tiếp.

Các đại biểu cùng tham gia nghi lễ tắt đèn biểu trưng tại Quảng trường Cách mạng tháng Tám.(Ảnh : nangluongvietnam.org)
Thống kê từ Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia, trong 1 giờ tắt đèn, Việt Nam đã tiết kiệm được 451 MW tương đương 451000 kWh điện, tiết kiệm được 731,544 triệu đồng.
Ýnghĩa của Chiến dịch Giờ Trái đất nhằm khuyến khích hành động xa hơn một giờ tắt đèn. Mỗi hành động nhỏ sẽ mang đến ý nghĩa lớn góp phần thay đổi nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chiến dịch Giờ Trái đất là một trong những hành động của Việt Nam thể hiện cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính đến năm 2030 góp phần cùng thế giới chung tay trong cuộc chiến ứng phó biến đổi khí hậu.
Thành phố Hà Nội hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất
Thành phố Hà nội hưởng ứng Chiến dịch từ năm 2009. Trong nhiều năm qua, Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã chỉ đạo thành công Chiến dịch Giờ Trái đất, kích hoạt cho 63 tỉnh, thành phố tham gia hưởng ứng.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XVI đã xác định hướng trọng tâm phát triển kinh tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, sử dụng có hiệu quả và bền vững tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chiến dịch Giờ Trái Đất thành phố Hà Nội 2016 với mục đích: Thực thi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và Chỉ thị số 171/CT-TTg ngày 26/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Tăng cường thực hiện tiết kiệm điện; Nâng cao nhận thức cộng đồng về tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, hướng tới nền kinh tế các bon thấp. Vận động sự tự nguyện tham gia của các tổ chức, cá nhân; các hành động trong suốt thời gian tiếp theo để bảo vệ môi trường, thực hiện tốt “Năm trật tự và văn minh đô thị 2016”.
Tại sự kiện, ông Nguyễn Doãn Toản, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội đã phát động sự tự nguyện của cơ quan, đơn vị, người dân Thủ đô Hà Nội hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất bằng những hành động nhỏ như: tắt các thiết bị điện khi không sử dụng, tiết kiệm nước, trồng thêm một cây xanh, tạo thành thói quen tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường trong suốt cả năm; Góp phần quan trọng xây dựng hình ảnh đẹp về Thủ đô Hà Nội đối với người dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Đêm sự kiện Giờ Trái đất 2016 đã được đông đảo cộng đồng Thủ đô Hà Nội tham gia, có trên 800.000 cam kết tắt đèn và các thiết bị không cần thiết trong Giờ Trái đất, từ 20 giờ 30 đến 21 giờ 30 ngày 19 tháng 3.
Dưới đây là một số hình ảnh về chương trình hưởng ứng Chiến dịch Giờ Trái đất 2016:
I. Giới thiệu
Tên chính thức: Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao Công nghệ Môi trường Đô thị
Tên tiếng Anh: Center for Research and Technology Transfer Urban Environment
Địa chỉ : Số nhà 24, Ngõ 61, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội
Điện thoại: +84438432952
II. Chức năng, nhiệm vụ :
Thực hiện các chương trình nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường, xử lý và tái chế chất thải, cải thiện môi trường và các hệ sinh thái.
– Thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ: đào tạo, tư vấn, chuyển giao công nghệ, đánh giá tác động môi trường, hội thảo, hội nghị.
– Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường đô thị
Tổng Công ty Phát điện 3 (EVNGENCO3) khẳng định đã khắc phục tình trạng xả khói đen của Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2.
EVNGENCO3 cho biết, vào lúc 8h00 ngày 2/7/2015 trong quá trình vận hành tổ máy 2 – Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đã xảy ra sự cố nghẹt đường dẫn tro từ phễu thu tro tại bộ lọc bụi tĩnh điện về silo tro dẫn đến tình trạng xả khói thải màu đen ra môi trường.
Ngay sau đó, ngày 03/7/2015, Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân đã gửi văn bản thông báo kịp thời về sự cố nêu trên tới chính quyền địa phương và người dân. Sau đó, Công ty đã cho tạm ngừng tổ máy số 2, tập trung huy động toàn bộ lực lượng khắc phục sự cố.
Đến 22h00 ngày 09/7/2015 công tác xử lý việc nghẹt tro của tổ máy số 2 đã được khắc phục hoàn toàn và bộ lọc bụi tĩnh điện đã vận hành 100% công suất thiết kế, nồng độ bụi thoát ra từ ống khói đạt mức 152mg/Nm3 thấp hơn tiêu chuẩn cho phép theo TCVN 7440:2005 (168mg/Nm3).
EVNGENCO3 khẳng định, sau khi khắc phục sự cố, Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân đã phối hợp với Sở Tài nguyên – Môi trường kiểm tra điều kiện môi trường của Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 trong quá trình vận hành. Hiện tại, cả hai tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đều vận hành ổn định, các thông số về môi trường đều nằm trong giới hạn cho phép.
Tổng Công ty Phát điện 3 đã chỉ đạo Công ty nhiệt điện Vĩnh Tân tiếp tục tăng cường giám sát các thông số vận hành của tổ máy 2 – Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 để kịp thời phát hiện và xử lý các hiện tượng bất thường, không để tái diễn tình trạng xả khói đen ra môi trường làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
NangluongVietnam.vn
VIETNAMENERGY
Ngày 24/6, tại Hà Nội, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) đã tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021 và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba.
Nhiệt liệt Chào Mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
Đại diện các cơ quan Trung ương: Văn phòng Trung ương Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chính phủ; Ban Kinh tế Trung ương; Bộ Công Thương; Bộ Nội vụ,…
Nhiệt liệt chào mừng trên 300 đại biểu chính thức của Đại hội, là các đồng chí lãnh đạo các Tập đoàn: Điện lực Việt Nam, Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo các Tổng công ty, các công ty và các đơn vị thành viên thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam về dự đại hội…
Với vai trò phản biện, kiến nghị với Đảng, Chính phủ về phát triển năng lượng quốc gia, Hiệp hội đã góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
Đại hội nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đại diện các cơ quan thông tin đại chúng của Trung ương và Hà Nội đến tham dự, theo dõi và đưa tin.
Thành tích quan trọng trong suốt thời kỳ đổi mới của đất nước, ngành năng lượng Việt Nam đã đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Mức tăng trưởng năng lượng hàng năm đều gấp đôi mức tăng trưởng GDP của cả nước, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản các dự án năng lượng ngày càng phát triển và luôn đi trước một bước.
VEA đã tổ chức tư vấn, đề xuất các cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện một cách độc lâp, khách quan tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành chức năng – nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các thành viên khắc phục khó khăn để không ngừng phát triển.
Tại Đại hội nhiệm kỳ III, hơn 300 đại biểu chính thức đại diện cho người lao động của ngành Năng lượng Việt Nam đã đánh giá lại toàn bộ các hoạt động của nhiệm kỳ II, để rút ra những bài học, thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ III.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội đồng Khoa học của VEA đã đưa ra đã đưa ra 8 định hướng cho giai đoạn tới, nhằm phản biện tốt hơn các chính sách, giải pháp phát triển năng lượng cho Chính phủ, VEA và các đơn vị thành viên;
+ Trong nhiệm kỳ này, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Năng lượng Việt Nam (VESC) thực hiện, với mục tiêu hỗ trợ phát triển năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. VESC hiện có 5 sản phẩm, dịch vụ chính là: Kiểm toán năng lượng, Tư vấn thiết kế, Tuyển dụng và Đào tạo, Xúc tiến tài chính và Nghiên cứu phát triển. Thúc đẩy mở rộng và phát triển thị trường, sản xuất, kinh doanh và hợp tác khoa học – kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
+ Trong nhiệm kỳ này, Hội Thủy điện vừa và nhỏ – Năng lượng xanh (MSH-GE), thúc đẩy sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả; về phân ngành Điện tiếp tục phát triển các nguồn điện mới nhằm tăng sản lượng, tăng công suất bổ sung vào Hệ thống điện quốc gia.
Thành tựu nổi bật trọng nhiệm kỳ qua
1- Quan tâm đặc biệt đến chức năng tư vấn chiến lược phát triển ngành Năng lượng;
2- Thực hiện tốt chức năng tư vấn xây dựng phát triển ngành Năng lượng;
3- Giữ được niềm tin trong hoạt động tư vấn dự án năng lượng;
4- Đề cao trách nhiệm là đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho ba thành viên EVN, PVN, TKV;
5- Tổ chức Hội chợ – Triển lãm và Hội thảo về năng lượng đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư phát triển ngành Năng lượng;
6- Duy trì và đẩy mạnh công tác tuyên truyền lên tầm cao mới phục vụ phát triển ngành Năng lượng Việt Nam;
7- Thành lập các đơn vị trực thuộc mới và phát triển thêm thành viên;
8- Tăng cường mối quan hệ mật thiết với các Bộ, Ngành, các Địa phương, các Tổ chức, Hiệp hội chuyên ngành và các Cơ quan Thông tin đại chúng;
9- Kịp thời chia sẻ với phân ngành Than trước tác động của thiên tai;
10- Thể hiện mạnh mẽ việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
VEA bám sát hoạt động của các thành viên trên tất cả các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây dựng, quản lý, sản xuất, vận chuyển và truyền tải, phân phối, kinh doanh, thăm dò, khai thác, chế biến, tồn trữ, xuất nhập khẩu năng lượng… để kịp thời kiến nghị tới các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các bộ, ngành chức năng, nhằm tháo gỡ những khó khăn tác động xấu đến sự phát triển của các thành viên.
Theo đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Chính phủ về việc xác định tiềm năng các nguồn năng lượng than, dầu khí, thủy điện, mặt trời, gió, sinh khối – khí sinh học, địa nhiệt… từ đó xác định đầu tư bằng công nghệ tiên tiến nhất, nguồn vốn khả thi, tổ chức thực hiện. Đặc biệt quan tâm đến xác định trữ lượng nguồn tài nguyên than ở khu vực Đông Bắc, Quảng Ninh, Đồng bằng sông Hồng, trên cơ sở đó đề xuất chiến lược phát triển phân ngành Than trong tương lai.
Những thách thức này, đòi hỏi các thành viên trong ngành Năng lượng Việt Nam phải nỗ lực hết mình, lao động sáng tạo, tích cực đổi mới và vận dụng quy luật của nền kinh tế trị trường, tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, phát huy vai trò của Hiệp hội VEA trong sự nghiệp phát triển mới.
Điện sinh khối (Biomass power) là việc sử dụng năng lượng sinh khối (Biomass) để sản xuất điện năng. Đây là dạng năng lượng tái tạo và có trữ lượng không nhỏ nên được nhiều nước quan tâm đầu tư và phát triển. Bài viết này sẽ đề cập về điện sinh khối, ứng dụng điện sinh khối ở một số nước trên thế giới và tiềm năng phát triển ở Việt Nam.
Năng lượng sinh khối và điện sinh khối
Sinh khối là vật liệu hữu cơ dự trữ ánh sáng mặt trời dưới dạng năng lượng hoá học, năng lượng từ mặt trời được “giữ” lại bởi cây cối qua quá trình quang hợp trong giai đoạn phát triển của chúng. Khi được đốt cháy, năng lượng hoá học này được giải phóng dưới dạng nhiệt dùng để nấu nướng, sưởi ấm và làm nhiên liệu.
Khi thực vật sinh trưởng, chúng hấp thụ khí các-bon-níc (CO2) trong môi trường và dự trữ nó thông qua quá trình quang hợp. Một lượng CO2 tương đương được giải phóng khi thực vật bị phân huỷ tự nhiên hoặc đốt cháy. Điều đó có nghĩa là năng lượng sinh khối không đóng góp vào quá trình phát thải khí nhà kính.
Trong tự nhiên, sinh khối bao gồm cây cối, cây trồng công nghiệp, tảo và các loài thực vật khác, hoặc là những bã nông nghiệp và lâm nghiệp (rơm rạ, bã mía, vỏ, xơ bắp, lá khô, vụn gỗ v.v…), giấy vụn, mêtan từ các bãi chôn lấp, trạm xử lý nước thải, phân từ các trại chăn nuôi gia súc và gia cầm…
Trên quy mô toàn cầu, năng lượng sinh khối là nguồn năng lượng lớn thứ tư, chiếm khoảng 14%-15% tổng năng lượng tiêu thụ của thế giới. Ở các nước đang phát triển, năng lượng sinh khối thường là nguồn năng lượng lớn, trung bình đóng góp khoảng 35% trong tổng cung cấp năng lượng. Vì vậy năng lượng sinh khối giữ vai trò quan trọng và có khả năng sẽ giữ vai trò sống còn trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của thế giới trong tương lai.
Điện sinh khối ở một số nước trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có sáu hệ thống điện sinh học lớn, bao gồm: Đốt biomass trực tiếp, đồng đốt cháy, khí hoá, tiêu hoá kỵ khí, nhiệt phân và hệ thống điện sinh học nhỏ, module. Ước tính tới năm 2020, sản lượng điện sinh khối của thế giới là hơn 30.000 MW.

Nhà máy điện sinh khối Alholmens, Phần Lan công suất 240 MW điện cộng với 160 MW nhiệt.nangluongvietnam.org
Mỹ là nước sản xuất điện biomass lớn nhất thế giới, có hơn 350 nhà máy điện sinh học, sản xuất trên 7.500MW điện mỗi năm. Những nhà máy này sử dụng chất thải từ nhà máy giấy, nhà máy cưa, sản phẩm phụ nông nghiệp, cành lá từ các vườn cây ăn quả… Năng lượng sinh khối chiếm 4% tổng năng lượng được tiêu thụ ở Mỹ và 45% năng lượng tái sinh.
Ở Nhật Bản, Chính phủ đã ban hành Chiến lược năng lượng sinh khối từ năm 2003 và hiện nay đang tích cực thực hiện Dự án phát triển các đô thị sinh khối (biomass town). Đến đầu năm 2011, Nhật Bản đã có 286 thị trấn sinh khối trải dài khắp đất nước.
Tại Hàn Quốc, năng lượng sinh khối đang được tích cực nghiên cứu, phát triển ở đất nước này với mục tiêu đến năm 2030 năng lượng tái tạo sẽ đạt 11%, trong đó năng lượng từ sinh khối sẽ đạt 7,12%.
Còn ở Trung Quốc đã có Luật năng lượng tái tạo và hiện nay đã có hơn 80 nhà máy điện sản xuất từ sinh khối với công suất đến 50MW/nhà máy. Tiềm năng là có thể đạt được 30GW điện từ loại hình năng lượng này.
Các nhà máy điện sinh khối thường có công suất bé dưới 10MW. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà máy điện sinh khối công suất lớn trên thế giới như:
+ Nhà máy điện sinh khối COLMAC ở Mecca, California, Mỹ công suất 47 MW.
+ Nhà máy điện Teesdies vương quốc Anh, công suất 295 MW được xây dựng và dự kiến bắt đầu hoạt động thương mại vào cuối năm nay.
+ Nhà máy điện sinh khối chuyên dụng Alholmens (Phần Lan), công suất 240 MW điện cộng với 160 MW nhiệt.
+ Nhà máy điện biomass công suất 50MW ở California, sử dụng phụ phẩm gỗ từ các nhà máy cưa lân cận.
+ Nhà máy điện sinh khối công suất 44 MW tại Steven’s Croft ở Scotland.
Điện sinh khối ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối như: gỗ, phế thải – phụ phẩm từ nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác… Trong đó, nguồn sinh khối chủ yếu vẫn là gỗ và phụ phẩm nông nghiệp như bảng sau.

nangluongvietnam.org
Theo Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21/7/2011 thì Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ phát triển năng lượng tái tạo chiếm 9,4% tổng công suất điện cả nước. Trong đó, điện gió đạt 6.200 MW, điện sinh khối 2.000 MW, các loại năng lượng khác như địa nhiệt, điện sản xuất từ rác thải sinh hoạt, khí sinh học… đạt khoảng 6.000 MW.
Một số nhà máy điện Biomass tại Việt Nam
– Dự án xây dựng nhà máy điện sinh học Biomass tại khu Rừng Xanh, thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng mức đầu tư 1.160 tỷ đồng, công suất 40MW, dự kiến đến năm 2013 nhà máy sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động với sản lượng điện là 331,5 triệu KWh/năm. Nhà máy hoạt động sẽ tạo điều kiện cho các hộ gia đình nông thôn bán phế thải hữu cơ nông nghiệp và rác thải sinh hoạt nông thôn cho nhà máy như: rơm, rạ, thân cây ngô, sắn, đỗ, lạc hoa, cây củi sau khai thác rừng…
– Tập đoàn tập đoàn Doosan (Hàn Quốc) đã chuẩn bị thủ tục để đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện sinh khối (Biomass) tại khu công nghiệp Minh Hưng – Hàn Quốc (huyện Chơn Thành) có công suất thiết kế 19 MW, cung cấp hơi nước 70m3/h. Dự án có vốn đầu tư 70 triệu USD. Nguyên liệu thô cung cấp cho nhà máy hoạt động chủ yếu từ thực vật ngành nông – lâm nghiệp. Tập đoàn sẽ hoàn tất thủ tục pháp lý và dự án có thể hoàn thành vào năm 2015.
– Nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại KCN Trà Nóc 2 TP. Cần Thơ do Công ty Cổ phần Nhiệt điện Đình Hải đầu tư, đã hoàn thành và đưa vào hoạt động giai đoạn 1 với công suất 20 tấn hơi/giờ. Nhà máy có công suất phát điện 2MW khi nhà máy vận hành ở chế độ không sản xuất hơi nước. Giai đoạn 2 của sẽ đầu tư turbine 3,7MW cấp điện lên lưới quốc gia.
– Những dự án nhiệt điện đốt trấu tại đồng bằng sông Cửu Long:
+ Tỉnh An Giang có 2 dự án nhà máy nhiệt điện đốt trấu gồm 1 nhà máy tại khu công nghiệp Hòa An, huyện Chợ Mới, công suất 10 MW, tổng vốn đầu tư trên 10 triệu USD. Nhà máy thứ 2 có công suất 10 MW, đặt tại xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, vốn đầu tư khoảng 15 triệu USD. Hai nhà máy này sẽ tiêu thụ khoảng 240.000 tấn trấu.
+ Tỉnh Tiền Giang có 1 dự án nhà máy nhiệt điện đốt trấu khoảng 10MW, vốn đầu tư trên 18,6 triệu USD.
+ Tỉnh Đồng Tháp dự kiến xây dựng 1 nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại ấp Bình Hiệp B, huyện Lấp Vò, tổng vốn 296 tỷ đồng, công suất thiết kế 10MW.
+ Tỉnh Kiên Giang sẽ đầu tư xây dựng 1 nhà máy điện trấu công suất 11 MW.
+ Tại Cần Thơ sẽ xây dựng thêm một nhà máy nhiệt điện đốt trấu tại quận Thốt Nốt, công suất 10 MW, tiêu thụ khoảng 80.000 tấn trấu/năm.
Theo số liệu tính toán, cứ 5 kg trấu tạo ra 1 KW điện, như vậy với lượng trấu hàng triệu tấn trấu mỗi năm thu lại được hàng trăm MW điện. Theo Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam: “Việt Nam có nguồn trấu dồi dào. Đây là nguồn nguyên liệu phong phú phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện trong tương lai”.
Với lợi thế một quốc gia nông nghiệp, Việt Nam có nguồn sinh khối lớn và đa dạng từ gỗ củi, trấu, bã cà phê, rơm rạ và bã mía. Phế phẩm nông nghiệp rất phong phú dồi dào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, chiếm khoảng 50% tổng sản lượng phế phẩm nông nghiệp toàn quốc và vùng đồng bằng sông Hồng với 15% tổng sản lượng toàn quốc. Hàng năm tại Việt Nam có gần 60 triệu tấn sinh khối từ phế phẩm nông nghiệp trong đó 40% được sử dụng đáp ứng nhu cầu năng lượng cho hộ gia đình và sản xuất điện.
Trong khi nguồn năng lượng hoá thạch ngày càng cạn kiệt, nhu cầu sử dụng điện ngày càng cao thì giải pháp sử dụng nguồn điện sinh khối để thay thế mang ý nghĩa to lớn trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Hơn nữa, Việt Nam lại có tiềm năng to lớn để phát triển điện sinh khối cả trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, số các dự án năng lượng tái tạo đi vào hoạt động tính đến thời điểm này vẫn còn quá ít và chỉ có vài dự án là điện sinh khối nối lưới, việc đầu tư mang nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của quốc gia. Do vậy, đầu tư các nhà máy điện sinh khối không chỉ đáp ứng nhu cầu về điện ngày càng tăng mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước theo xu hướng phát triển bền vững. Ngoài ra, điện sinh khối còn giúp người nông dân có thêm nguồn thu nhập từ những thứ mà trước đây là phế thải như rơm, trấu, bã mía, mùn cưa,… vào tạo thêm nhiều việc làm cho họ.
Nguồn: Hồ Tấn Triêu
Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC), cho biết, 6 tháng đầu năm, đã tiết kiệm được 58,2 triệu kWh, đạt 123,9% so với kế hoạch đề ra.
Để đạt được kết quả trên, trong thời gian qua, EVNCPC đã ký kết hợp đồng hợp tác “Chương trình quảng bá và hỗ trợ khách hàng sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời năm 2012” với 5 nhà cung cấp, tổ chức chiến dịch thi đua “Gia đình tiết kiệm điện năm 2012” cho khách hàng sử dụng điện ở 6 thành phố trong khu vực, với 12.000 giải thưởng trị giá mỗi giải thưởng 200.000 đồng…
Bên cạnh đó, EVNCPC đã đảm bảo vận hành hệ thống lưới điện an toàn, liên tục, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, an ninh chính trị trên địa bàn khu vực duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
Sản lượng điện thương phẩm 6 tháng đầu năm ước đạt hơn 4,867 tỷ kWh, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, điện cung cấp cho các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 43,56% trong tổng số điện thương phẩm, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2011. Doanh thu ước đạt 6.410, 477 tỷ đồng tăng 28% so với cùng kỳ năm 2011.
EVNCPC đặc biệt chú trọng đến công tác cung cấp điện cho khu vực nông thôn và miền núi. Tính đến nay, toàn khu vực đã có 117/117 số huyện, 1.546/1.557 số xã và 2.334.099/2.400.158 hộ dân nông thôn có điện.
Hiện nay EVNCPC đang tích cực triển khai các công việc có liên quan để 11 xã của Quảng Nam và 7 xã của các tỉnh Tây Nguyên sẽ có điện trong thời gian sớm nhất.
Nguồn: NangluongVietnam